SỞ Y TẾ TỈNH TÂY NINH. (0276).3822100. Chịu trách nhiệm chính: Ban biên tập. Thứ bảy, 15/10/2022, 19:24. Quy định tại điểm h khoản 2 Điều 70 dự thảo Luật về việc Nhà nước thu hồi đất đối với "dự án khu đô thị, khu nhà ở thương mại" sẽ tác động rất lớn đến quyền của người sử dụng đất. Các dự án khu đô thị, nhà ở thương mại mang tính chất kinh doanh Văn mẫu lớp 8 Tập 1: Phân tích nhân vật bà mẹ và bé Hồng trong tập hồi kí "Những ngày thơ ấu" của Nguyên Hồng. Skip to content. MENU MENU. 0979263759 - 0889991688; MENU MENU. MENU MENU. KHÓA HỌC. LỚP HỌC THÊM TOÁN 12; HỌC THÊM TOÁN LỚP 11; Read story Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh by titi08 with 37,601 reads. biography. Nguyễn Đăng Mạnh Hồi ký Nguyên Hồng 216. Chương XV: Nam Cao 225. Chương XVI: Tô Hoài 230 Chương XX: Nguyên Ngọc 264. Chương XXI: Hoàng Ngọc Hiến 267. Chương XXII: Dương Thu Hương 277. Chương XXIII: Lưu Công Nhân - Đăng ký đầy đủ, chính xác thông tin; số điện thoại người nhận, địa chỉ nhận, loại tem mua theo đúng loại thẻ khách hàng sử dụng, kèm file ảnh. - Giữ thông tin liên lạc trong thời gian chờ nhận tem. - Xuất trình thẻ cho nhân viên chuyển phát để dán tem. Trang chủ Sở Tài nguyên môi trường tỉnh Khánh Hòa lựa chọn nhà thầu thực hiện định giá đất cụ thể để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện Kè chống sạt lở khu vực chân núi Chùa Kỳ Viên Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Khánh Hòa công bố G1tiP7. Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên HồngMỞ do chọn đề tàiNguyên Hồng là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam. Ông sinh ra vàlớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nên không có điều kiện học lên cao. Ông sốngvà gắn bó với lớp người cùng khổ. Văn Nguyên Hồng thấm đẫm hơi thở cuộcsống, gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Những tác phẩm của Nguyên Hồng gần gũivới mọi tầng lớp, đặc biệt là tầng lớp bình dân. Cũng giống như con người ông, cácsáng tác của Nguyên Hồng đều giàu cảm xúc, có sức truyền tải ký Những ngày thơ ấu là một tác phẩm đặc sắc .Tuy nhiên từ trước đếnnay tác phẩm vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu kĩ lưỡng. Việc nghiên cứuNhững ngày thơ ấu sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc đời và con người nhàvăn Nguyên đó chúng ta sẽ có cái nhìn đúng đắn đối với những sáng táccủa ông. Đó là lí do tại sao người viết chọn hồi lý Những ngày thơ ấu là đối tượngcho bài niên luận của qua bài niên luận này, người viết xin đưa ra mộtcách tiếp cận tác phẩm Những ngày thơ ấu dưới góc độ đặc sắc nội dung và Lịch sử nghiên cứu vấn đềTừ trước đến nay, đã có nhiều bài nghiên cứu về Nguyên Hồng và các sáng táccủa ông. Tuy nhiên, lại có rất ít những bài nghiên cứu về hồi ký Những ngày ký chỉ được nhắc đến “điểm xuyết” trong một số công trình nghiên cứu .Dưới đây, người viết xin phép được trích dẫn một số những đánh giá của các nhànghiên cứu về cuốn hồi ký nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ trong lời giới thiệu Tuyển tập NguyênHồng nhận xét “Những ngày thơ ấu là những lời tâm sự thiết tha, thầm kín,1Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngnhững hồi ức của một cái “tôi” đau khổ tự trình bày cuộc đời riêng tư của mìnhlên trang giấy một cách chân thành,tin cậy”Bùi Hiển trong bài Nhớ một đồng nghiệp viết “Những ngày thơ ấu là khátkhao ghi liền một mạch nối liền tâm sự …, viết cho chính mình, viết để giải thoátmình khỏi tất cả những nỗi ám ảnh nặng nề, những oán hờn cay đắng và tất cảnhững xót thương , quằn quại đang cứa lòng mình như bao nhiêu lưỡi dao sắcnhọn”Sau này, các tác giả như Nguyễn Đăng Điệp , Huy Cận , khi đi vào thể hồi kývà cách viết hồi ký của Nguyên Hồng đã có sự phân tích cụ thể hơn. Nhưng cuốnhồi ký Những ngày thơ ấu cũng mới chỉ dừng lại ở việc được các tác giả sử dụnglàm dẫn chứng. Đáng chú ý là bài viết Đặc sắc hồi ký Nguyên Hồng của NguyễnĐăng Điệp. Ông nhận thấy “Nguyên Hồng có cách viết hồi ký của riêng ông. Nhàvăn không hề tái hiện sự kiện theo kiểu biên niên khô cứng mà trên cái nền sự kiện,biến cố, ông tập trung vào những điểm chính yếu, sinh động nhất để xứng đáng vớilinh khí thời đã vãng. Cái mà Nguyên Hồng quan tâm hơn cả là làm sao để thểhiện một cách chính xác tâm trạng của mình trong những thời khắc khó quên ấy.”Từ những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, bài niên luận sẽ đi sâuvào việc tìm hiểu “Đặc sắc trong hồi ký Những ngày thơ ấu” của nhà văn Phương pháp nghiên pháp khảo pháp miêu tả-phân pháp so sánh2Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên pháp tổng cụcNgoài hai phần mở đầu và tổng kết, bài niên luận được chia thành ba chươngChương một Khái quát chung về tác giả và tác phẩmChương hai Đặc sắc hồi ký Những ngày thơ ấuChương ba So sánh hồi ký Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng với một số hồiký khácChương MộtKHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC giả Nguyên sử cá nhân 1918-1982Tên thật của Nguyên Hồng là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11năm 1918 tại thành phố Nam Định, trong một gia đình theo đạo Thiên Chúa từnhiều đời. Năm mười hai tuổi, bố mất. Nguyên Hồng chủ yếu sống với bà nội vàmẹ. Đã có lúc mẹ Nguyên Hồng phải đi ở vú, sau đó thì bà đi bước sáutuổi,Nguyên Hồng phải thôi học, từ giã quê hương và người bà mộ đạo, cùng mẹvà bố dượng ra sinh sống ở xóm Cấm, Hải Phòng. Tại đây Nguyên Hồng trở thành3Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngcậu giáo tư của mấy trẻ nhỏ con em lao động. Ngay từ nhỏ, Nguyên Hồng đã sốnghòa đồng với cuộc đời của những người lao động nghèo phố thị, lại sớm tiếp xúcvới sách báo tiến bộ của thời kỳ Mặt trận Bình dân. Do vậy, Nguyên Hồng sớmthấy được cái tăm tối và bất công ngột ngạt của một xã hội thực dân, thuộc địa ởHải PhòngTrong thời gian ở Hải Phòng, Nguyên Hồng đã gặp được Thế Lữ 1935. Từđó, Nguyên Hồng nuôi ước vọng đi vào con đường văn học. Năm 1936, NguyênHồng in truyện ngắn đầu tay trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy. Từ đó, Nguyên Hồngcàng củng cố hơn quyết tâm đi theo con đường văn chương. Chính trong căn nhà ổchuột của khu lao động xóm Cấm Hải Phòng, Nguyên Hồng đã bắt tay vào viếtnhững trang đầu tiên của Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu. Tác phẩm Bỉ vỏ được indần trên báo rồi nhận được giải thưởng “Tự lực văn đoàn” 1937_giải thưởng đầutiên của văn đoàn sách bào tiến bộ, ở Hải Phòng, Nguyên Hồng còn được tiếp xúc với mộtsố đảng viên cộng sản hoạt động ở Hải Phòng, trong đó có đồng chí Tô Hiệu1939 là Bí thư Thành ủy lúc bấy giờ. Nguyên Hồng ngày càng tham gia tích cựccác hoạt động xã hội do Đảng cộng sản Đông Dương chủ trương trong thời ký Mặttrận Dân chủ. Ngày 29-9-1939, Nguyên Hồng bí mật thám Pháp tại Hải Phòng, bịkết án sáu tháng tù giam, bị đi đày trại Bắc Mê Hà Giang rồi lần lượt bị quản thúctại Nam Định, Hải Phòng. Thời kỳ này, các tập Qua những màn tối và Cuộc sốngcủa Nguyên Hồng ra mắt bạn đọc đã thể hiện bước chuyển biến mới về tư tưởng vàphong cách nghệ thuật của tác năm tiếp theo, Nguyên Hồng tích cực tham gia các phong trào cáchmạng. Năm 1948, Nguyên Hồng được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dươngnay là Đảng cộng sản Việt Nam4Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên HồngNăm 1954, Nguyên Hồng cùng gia đình về Hà Nội, ông công tác tại Hội Vănnghệ Việt Nam . Năm 1957, Hội nhà văn Việt Nam thành lập , ông làm thư ký tòasoạn báo Văn của Hội do nhà văn Nguyễn Công Hoan , Chủ tịch Hội làm chủnhiệmNăm 1958, Nguyên Hồng đi thực tế nhà máy Ximăng Hải Phòng. Ông bắt đầuviết Sóng gầm, tập đầu của bộ tiểu thuyết dài bốn tập Cửa biểnNăm 1962, ông cùng gia đình trở lại sống ở Yên Thế-Nhã Nam nay là xãQuang Tiến, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang cho đên cuối Hồng mất ngày 2-5-1982 khi đang hoàn thành tập Hai bộ Núi rừngYên ThếNhà văn Nguyên Hồng được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên1966 , là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1 và 2, là ngườithầy trực tiếp dìu dắt nhiều thế hệ học trò đi vào con đường sáng tạo văn Tác phẩm văn học•••Bỉ vỏ tiểu thuyết, 1938Bảy Hựu truyện ngắn, 1941;Những ngày thơ ấu hồi ký, đăng báo lần đầu năm 1938, xuất bản năm••••••••••1940;Qua những màn tối truyện, 1942;Cuộc sống tiểu thuyết, 1942,Quán nải tiểu thuyết, 1943;Đàn chim non tiểu thuyết, 1943;Hơi thở tàn tiểu thuyết, 1943;Hai dòng sữa truyện ngắn, 1943;Vực thẳm truyện vừa, 1944;Miếng bánh truyện ngắn, 1945;Ngọn lửa truyện vừa, 1945;Địa ngục và lò lửa truyện ngắn, 1946- 1961;5Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng••••••••••••••••••Đất nước yêu dấu ký, 1949;Đêm giải phóng truyện vừa, 1951;Giữ thóc truyện vừa, 1955;Giọt máu truyện ngắn, 1956;Trời xanh thơ, 1960Sóng gầm tiểu thuyết, 196l;Sức sống của ngòi bút tạp văn, 1963;Cơn bão đã đến tiểu thuyết, 1963;Bước đường viết văn của tôi hồi ký, 197l;Cháu gái người mãi võ họ Hoa truyện thiếu nhi, 1972,Thời kỳ đen tối tiểu thuyết, 1973;Một tuổi thơ văn hồi ký, 1973;Sông núi quê hương thơ, 1973;Khi đứa con ra đời tiểu thuyết, 1976;Những nhân vật ấy đã sống với tôi hồi ký, 1978;Thù nhà nợ nước. tập I, trong bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế, 1981;Núi rừng Yên Thế tiểu thuyết, tập II, 1993;Tuyển tập Nguyên Hồng 3 tập Tập I 1983, Tập II 1984, Tập III 1985.II. Hồi ký “Những ngày thơ ấu” loại hồi kýHồi ký là thể loại phát triển sớm, có nguồn gốc từ thời cổ đại Hy Lạp, bắt đầutừ những ghi chép của Kxênophôn và Xocrát về “các cuộc hành quân của người6Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên HồngHy Lạp thế kỷ V trước CN dẫn theo lời Lê Bá Hán-Trần Đình Sử. Riêng ở ViệtNam, hồi ký mới phát triển và trở thành thể loại được chú ý trong thời gian gầnđây. Cùng với sự phát triển thể hồi ký, khái niệm hồi ký ra đời và được nhiềungười biết tác giả Lê Bá Hán-Trần Đình Sử-Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điểnthuật ngữ văn học đưa ra khái niệm “Hồi ký là một thể loại thuộc loại hình ký, kểlại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặcchứng kiến. Xét về phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại vềtính chính xác của sự kiện, về góc độ phương thức diễn đạt, hồi ký có nhiều chỗgần nhật ký. Còn về phương diện tư liệu, về tính xác thực không có hư cấu thì hồiký lại gần với văn xuôi lịch sử , tiểu sử khoa học”. Nhưng khác với sử gia “ngườiviết hồi ký quan tâm đến hiện thực trong quá khứ và bằng tưởng tượng , hồi ứcriêng, trực tiếp của mình”.Thế giới biết đến hồi ký của công nương Anh Diana, tổng thống Mỹ Kenerdy,ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton…Ở Việt Nam, một số tác phẩm hồi ký xuất sắc tiêu biểu như Đời viết văn củatôi của Nguyễn Công Hoan, Thời niên thiếu của Đặng Thai Mai, Cỏ dại, Cát bụichân ai của Tô Hoài, Nhớ lại một thời của Tố Hữu.. ký Những ngày thơ ấuHồi ký Những ngày thơ ấu ra đời năm 1938, được đăng dần trên báo Ngàynay của Tự lực văn đoàn từ số 134 ra ngày 29 tháng 10 năm tập hồi ký này,Nguyên Hồng có thể được xem là người đầu tiên mở màncho thể loại này trong văn học hiện đại. Vũ Ngọc Phan đánh giá rất cao tác phẩm7Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngnày và cho rằng Lối tự truyện này ở Anh, ở Mĩ, ở Nga rất thịnh hành nhưng ởViệt Nam ta viết được tôi cho là dũng ký Những ngày thơ ấu gồm chín chương•••••••••Chương 1 Tiếng kènChương 2 Chúa thương xót chúng conChương 3 Trụy lạcChương 4Trong lòng mẹChương 5 Đêm Nô-enChương 6 Trong đêm đôngChương 7Đồng xu cáiChương 8 Sa ngãChương 9 Một bước ngănChương haiĐẶC SẮC HỒI KÝ NHỮNG NGÀY THƠ thuyếtHồi ký Những ngày thơ ấu là “một cuốn tự truyện phô bày từ chân tơ kẽ tóccái buổi thiếu thời rất long đong của tác giả”. Trên thế giới không hiếm những tácgiả viết tự truyện về bản thân mình. Ở Việt Nam, trong số nhà văn đương thời,cũngcó không ít người nói về mình. “Đó là Nguyễn Tuân. Nhưng Nguyễn Tuân mới chỉthoảng cho ta biết anh chàng Tuân từng mẩu vụn. Cái lối ấy là lối cho độc giả “ăngiò dè” , làm cho người ta có cáu bực như cái bực của một đứa trẻ đối với một vúgià bón cơm miếng giò mà ăn một tý tẹo với một thìa cơm thì trong miệng chỉ cócái “cảm tưởng giò” chứ chẳng làm gì có cái thơm ngon của miếng thịt giã sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên HồngThiết Can cũng cho ta biết một cách kín đáo ở tên Đông trong tập Dã tràng , mộttập văn chưa dám mang rõ hẳn cái danh là tự truyện.”Viết tự truyện chưa bao giờ là một điều dễ, đặc biệt là ở nước ta. Người viêtphải trút bỏ hết tất cả những thành kiến của xã hội, phải biết vượt lên dư luận, phải< những tệ nạn xấu xa trong xã hộiTrong hồi ký, xã hội mà cậu bé Hồng đang sống đầy rẫy những bất công, lễgiáo phong kiến nghiêm ngặt, những lề thói khắc nghiệt. Những lễ giáo ấy đangbóp nghẹt cuộc sống, cướp đi quyền được hưởng tự do, được hưởng hạnh phúc củacon người mà nạn nhân trực tiếp chính là người mẹ của Hồng. Trong tác phẩm,người mẹ của Hồng có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Từ ngày về làm dâu,10Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồnglàm vợ, dường như bà rất hiếm khi nở nụ cười. Những cuộc nói chuyện với ngườichồng ngày càng trở nên gượng gạo. Sau khi chồng mất, bà quyết định đi bướcnữa. Thế nhưng, xã hội phong kiến hà khắc thời bấy giờ không chấp nhận việc mộtngười góa phụ đi tìm một hạnh phúc mới. Dựa vào những luật lệ hà khắc đó,những người cô của Hồng cho mình cái quyền xỉ vả, mắng nhiếc người mẹ tộinghiệp của bé Hồng, khiến cho người mẹ ấy không thể thường xuyên về thăm con,phải sống trong sự khinh miệt của người hội phong kiến ấy không chỉ “lạnh lùng” trong những điều luật mà cònngay trong chính trong bản thân mỗi con người. Cái ác tồn tại ở khắp nơi, trong xãhội và chính ngay cả trong gia đình bé đình, hai tiếng thiêng liêng nhất,ấm áp nhất nhưng đối với Hồng, nó chỉ gợi lên những đớn đau. Sau khi cậu mất,mẹ bỏ đi, Hồng sống với bà và cô. Cuộc sống thiếu thốn tình mẹ càng khó khăngấp bội lần khi từng ngày, từng giờ, Hồng phải đối mặt với sự lạnh lùng, tànnhẫn,khinh miệt của người cô. Khi nhắc đến mẹ Hồng, bà cô luôn dùng những từcay nghiệt và miệt thị nhất. “Hồng ơi! Bố mày nó chết đi nhưng còn có mẹ nó dạymày. Cầm bằng mẹ mày đánh đĩ theo giai, bỏ mày lêu lổng thì có chúng ta”. Hai từ“làm đĩ” chứa đựng biết bao sự thù hận, cay nghiệt, tàn nhẫn và độc “câurủa sả” của bà cô như những nhát dao đâm thấu trái tim nhỏ bé, mỏng manh củamột cậu bé mà ngay cả một chút phòng vệ cũng không có. Những câu nói màkhông ai nghĩ rằng là từ một thành viên trong gia đình. Cái ác, nó không có gì xa lạtrong cuộc sống. Cái ác, có thể phá hủy tâm hồn một trẻ ảnh người cô khắc nghiệt hiện lên cụ thể qua những dòng nhật kí thấmđẫm nước mắt của cậu bé Hồng-Ngày 12-11-1931- Cô C chắt nước ở liễn cháo gà đã vữa vào cái bát con. Côấy gọi cho mình ăn. Ai thèm ăn? Dù có đói lả! Cô ấy quý đầy tớ hơn mình sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng-Ngày khóc mà mình phải chửi. Có ức không? Ai true ghẹo côấy mà cô ấy nỡ lòng réo tên cái mẹ mình lên mà chửi”-Cái giống nhà tao không cóai thâm hiểm đâu. Chỉ có mày thôi. Mày là cái giống con cái L. mẹ mày. Quyểntruyện đáng giá bạc tram hay sao mà mày dằn ngửa con tao ra mà cướp như, đối với anh em Hồng, bà cô chỉ có sự căm ghét, khinh miệt; tuyệtnhiên không có một chút tình thương nào. Cái ác đó càng phải lên án hơn khi nạnnhân của nó là những đứa trẻ yếu ác đó nó còn tồn tại trong nhà trường, nơi mà moi người luôn giơ cao khẩuhiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, nơi mà con người vẫn ngày ngày thuyết giảngnhững bài học về đạo đức, về tính nhân văn. Vậy mà, một người thầy lại nỡ lòngdùng những đòn roi đau đớn nhất để “nói chuyện” với một học sinh. Người đọcchắc hẳn sẽ không quên được những dòng hồi ký đầy đau đớn, phẫn uất của cậu béHồng về những ngày tháng bị thầy giáo phạt quỳ. Chỉ vì một câu nói hiểu lầm màthầy giáo đã thằng tay “tát’ vào tuổi thơ của một cậu học trò những cái tát đầy đaunhói. Thầy giáo, một người đáng lẽ phải hiểu học trò hơn ai hết, thương học tròhơn ai hết lại “mắt long song sọc chiếu nhìn” Hồng và buông ra những lời caynghiệt không thua kém gì bà cô-Mày đứng im không thì chết-Mày là thằng khốn nạn-Câm! Câm ngay!Đồ ăn cắp! Câm ngay!-Câm!Câm ngay!Đồ mất dạyNhưng đâu chỉ dừng lại ở đó, thầy giáo còn dùng cái thước kẻ quật lên đầuHồng, “giằng tay” Hồng ra và “đưa những quả đấm nắm chắc” vào bên mặt cậu chân thầy “đưa gót giày lên sống lưng” Hồng. Những hành động đấm đá liên12Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngtiếp y như diễn biến một cuộc ẩu đả ngoài đường. Những hành động đáng lẽ khôngđược xuất hiện trong xã hội nay lại diễn ra trong lớp học, một nơi người ta dạynhau phải biết yêu thương tự xã hội bị đảo lộn. Mọi phép tắc đạo đứcbiến mất. Cái ác đang mở rộng và thống trị xã Hình ảnh con người trong xã hội* Con người bị tha hóaSống trong một xã hội đầy rẫy bất công như vậy, con người ngày càng bị thahóa dần . Hình ảnh người cậu của Hồng trong hồi ký chính là sản phẩm và cũngnạn nhân trực tiếp của xã hội ấy. Đó là một người đàn ông không hề biết hạnh phúclà gì. Trong cuốn hồi ký, Nguyên Hồng đã thú nhận “Hai thân tôi lấy nhau khôngphải vì quen biết nhau lâu mà thương yêu nhau . Chỉ vì hai bên cha mẹ , một bênhiếm hoi muộn cháu và có của; một bên sợ nguy hiểm giữ con gái đẹp đến thì ởtrong nhà và muốn cho người con gái ấy có chỗ nương tựa chắc chắn, được cảmột dòng họ trọng đãi nếu may mắn có con..” Một cuộc hôn nhân không hạnhphúc đẩy người đàn ông đi vào những đớn đau thầm lặng, những ngõ cụt không lốithoát, bởi vậy trong giọng nói và nụ cười của người đàn ông ấy “bao giờ cũngđượm vẻ trầm lặng, chua xót, hờn tủi”Như để quên đi những nỗi đau, muộn phiền ở thực tại, người cậu của Hồngtìm đến thuốc phiện_cánh cửa bước chân vào con đường tha hóa. Lần lượt đồ đạctrong nhà bán hết để lấy tiền mua thuốc phiện “Trừ chiếc tủ chè bằng gỗ gụ, tuykhông đẹp nhưng chắc chắn,nhà tôi không còn một đồ đạc gì đáng tiền áo,trường kỷ,án thư,sập sơn lần lượt bán đi”. Những cơn nghiện liên tiếp và kéo dàikhiến tâm tính người đàn ông ngày một thay đổi, trở nên thô lỗ và cộc cằn chí, người đàn ông ấy còn cướp đi những đồng bạc ít ỏi mà phải vất vả lắm,Hồng mới kiếm được. Khi phát hiện ra Hồng đi đánh đáo, người cậu đã dùng ngọn13Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngroi mây để đánh “Chiếc roi mây nhanh như chớp”. Những ngọn mây đó mang theobiết bao uất hận cuộc đời, biết bao đau thương. Và dường như, đó là cách duy nhấtđể người cậu ấy trút đau bao nhiêu thì người cậu cũng đau bấy đặc sắc trong ngòi bút của Nguyên Hồng đó là “mặc dù sắc sảo trongkhi khai thác hiện thực nhưng không lạnh nhạt hay khinh khỉnh, không nỡ chứachất lên nỗi uất hận”. Khi viết về người bố của mình, ngòi bút Nguyên Hôngkhông hề che đậy . “Thầy tôi lại quát. Nhưng lần này tiếng quát không rõ và ngândài như trước. Nó đánh phào một cái như tiếng nút chai bị đứt tuột mà người dựtđã phải dùng tận lực…Rồi thầy tôi chỉ ngồi rũ ra, không đánh tôi. Và cọc tiền củatôi vẫn y nguyên”. Thực ra, Hồng hiểu bản chất cậu mình không phải là người lấy những đồng xu vất vả của con kiếm được chỉ vì nghiện, nghiện đã khiếnông mất hết sĩ diện, mất hết cả tình thương. Đoạn văn hết sức cảm động khi chothấy được tấm lòng nhân hậu và khoan dung của cậu bé Hồng. Qua đó, người đọcthấy được bi kịch xảy ra trong gia đình nghèo mà người bố chính là nạn nhân trựctiếp của bi kịch đó.* Hình ảnh con người cùng cực trong xã hồi ký Những ngày thơ ấu, người bà và người mẹ của Hồng hiện lênnhư một nạn nhân trực tiếp của một xã hội phong kiến với những giáo lí, giáo điềunghiêm bà của Hồng phải chịu nhiều cay đắng, tủi cực đau khổ từ khi trẻ chođến khi già “Ngay từ khi mới lọt lòng mẹ, người đàn bà ấy đã phải chịu ngay cáibất công trong sự chăm nuôi cùng cac anh trai, em trai, lớn lên một chút choángváng u mê vì sự dạy bảo sai khiến của ông bà, cha mẹ và họ hàng….mười bảymười tám tuổi đã thành một người con gái cằn cỗi, lúc nào cũng khép nép, lo sợrồi thì về nhà chồng với một lòng nhẫn nhục ngày càng dạn dày, một tính khiếp14Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngphục ngày càng mạnh mẽ…..”Cuộc đời người đàn bà ấy dường như chưa bao giờhết đau khổ. Qua những dòng hồi ký của nhân vật Hồng, người đọc có thể thấy rõsự bất công của xã hội phong kiến đối với người phụ nữ. Khi bước sang tuổi bảymươi, cái tuổi mà đáng lẽ được hưởng hạnh phúc sum vầy bên con cháu, người đànbà ấy lại phải đi kiếm từng đồng để nuôi đứa con nghiện ngập và hai đứa cháu thơdại. Đằng sau sự cay nghiệt của người mẹ chồng ấy,người bà ấy là biết bao đauđớn tủi nhục, cực khổ trong suốt cả cuộc ký Những ngày thơ ấu đã tái hiện thành công hình ảnh người mẹ lam lũ,vất vả và đầy đắng cay. Đối với một người phụ nữ, hạnh phúc là gia đình. Thếnhưng, với người phụ nữ ấy, cái hạnh phúc giản dị như vậy cũng không có phụ nữ ấy lấy chồng cũng vì gia đình “sợ nguy hiểm giữ con gái đẹp đến thìở trong nhà và muốn cho người con ấy có chỗ nương tựa chắc chắn”. Một cuộchôn nhân không có tình yêu thì làm sao có hạnh chừng sau khi chồngmất, người phụ nữ ấy sẽ được tự do, sẽ được quyền đi tìm hạnh phúc cho riêngmình. Thế nhưng, xã hội ấy đâu buông tha cho người phụ nữ tội nghiệp ấy. Nhữngđịnh kiến, giáo lí, giáo điều bủa vây, bóp nghẹt cuộc sống của hai mẹ con Hồng .“Phong tục và lễ nghi cổ hũ đã bắt một người mẹ coi sự sinh nở khi chưa đoạntang chồng cũ ghê tởm hơn là những tội gian ác, xấu xa nhất”. Nỗi đau chồng chấtnỗi đau. Nỗi đau dường như chưa bao giờ biến mất và nó sẽ còn mãi in hằn trongcuộc đời những con người tội nghiệp ấy. Như lời đại thi hào Nguyễn Du đã từngnóiĐau đớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chungTruyện Kiều15Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên HồngBên cạnh hình ảnh người phụ nữ, hình ảnh những đứa trẻ mà tiêu biểu là nhânvật Hồng cũng góp phần thể hiện hình ảnh con người cùng cực trong xã hội ViệtNam những năm trước cách mạng tháng tám năm hồi ký,nhân vậtHồng được khắc họa với một cuộc sống lam lũ, vất sống êm đềm củaHồng kết thúc khi gia đình Hồng phá sản, người cậu đi vào con đường nghiện ngậpcòn người mẹ thì bỏ đi biệt xứ. Thiếu vắng tình mẹ, lại phải sống trong sự ghẻ lạnhcủa người cô, sự thờ ơ của người bà, những ngày thơ ấu của Hồng trở thành nhữngngày đen tối nhất trong cuộc đời. Để có thể sống được, cậu phải tự rèn luyện mìnhtrở thành một chuyên gia đánh đáo ăn tiền. Cậu bị họ hàng bỏ mặc cho đói rét thảmthương, bị thầy giáo đánh đập tàn nhẫn. Tuy nhiên, những đau đớn thể xác ấy nàosánh được với những tổn thương về tinh thần. Còn gì đau xót hơn khi bản thân liêntục phải chịu nhưng đớn đau, giày vò khi nghe bà cô nói những lời cay nghiệt vềmẹ của mình. Tình thương mẹ càng lớn bao nhiều thì nỗi đau mà cậu phải chịucàng lớn bấy nhiêu. Và những đau đớn, tổn thương ấy sẽ theo cậu mãi suốt cả cuộcđời, trở thành “vết sẹo” tâm hồn không thể xóa ảnh Hồng, người mẹ và người bà là đại diện cho lớp người cần lao trongxã con người đang bị những định kiến xã hội, những áp bức bóc lột củagiai cấp thống trị bủa vây, bóp nghẹt. Đó cùng là những con người mà NguyênHồng dùng cả cuộc đời để bảo vệ và chở che. Bởi vậy, trong những sáng tác củaNguyên Hồng, hệ thống nhân vật chính luôn thuộc tầng lớp cần Giá trị nhân đạo16Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên HồngCon đường nghệ thuật của Nguyên Hồng là con đường của nhà tiểu thuyếthiện thực chủ nghĩa với chủ đề nhân đạo mãnh liệt và thống thiết. Ông bước vàonghề văn do sự thôi thúc của nhu cầu nói lên thật sâu sắc những nỗi thống khổ củaloài người. “Có thể nói mỗi dòng chữ ông viết là một dòng nước mắt nóng bỏngtình xót thương ép ra từ trái tim vô cùng nhạy cảm của mình. Vốn xuất thân trongmột gia đình theo đạo Cơ Đốc, Nguyên Hồng như là một Chúa cơ đốc tự nguyệnmang lây xác phần của con người trần thế rồi lại hiển Thánh, Không phải bằngmột phép màu nào mà bằng những trang viết sẽ còn nói mãi với gia đình nhữngtình cảm thống thiết của ông.”Trong hồi ký Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng thể hiện sự thấu hiểu vàđồng cảm với người mẹ, người bà…Sự thấu hiểu đó xuyên xuyết toàn bộ sự nghiệpsáng tác của Nguyên Hồng. Những ngày thơ ấu ghi lại những nỗi khổ điển hìnhcủa những người cùng khổ , đại điện cho tầng lớp cần lao trong xã hội. Đó là hìnhảnh đứa bé Hồng với tuổi thơ lam lũ, vất vả và đầy cay đắng. Đó là hình ảnh ngườimẹ, người bà_những người phụ nữ phải sống cực khổ dưới chế độ phong kiến hàkhắc. Và cũng từ cuộc đời đau khổ , nhẫn nhục của mẹ mình, Nguyên Hồng yêuthương biết bao nhiêu bà mẹ Việt Nam khác ; quan tâm thiết tha đến số phậnnhững người phụ nữ bị lễ giáo phong kiến và những lề thói khắc nghiệt của xã hộicũ vùi dập, đe dọa. Đặc điểm này của Nguyên Hồng có sự tiếp thu văn học nhânđạo chủ nghĩa của phương Đông cũng như phương Tây. Cả hai nền văn học nàyđều nói đến nỗi đau khổ của phụ nữ và trẻ em. Đó là những lớp người bị đày đọanhất và có ít khả năng tự vệ nhất trong xã Nguyên Hồng, việc thể hiện nỗi bất hạnh ở con người cũng cốt là đểkhẳng định niềm tin ở con người. Dù bị cướp đoạt, bị bóc lột , bị đày đọa, cuộcsống của những người lao động vẫn cứ vươn lên với một sức mạnh, một vẻ đẹpkhông gì dập tắt được. Trong hồi ký Những ngày thơ ấu, cậu bé Hồng mặc dù17Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngphải sống một cuộc sống vất vả và đầy khổ cực nhưng ở cậu vẫn lấp lánh những vẻđẹp trong tâm hồn. Vượt qua nỗi đau về thể xác và tinh thần vì bị thầy giáo đánhđập, la mắng,tâm hồn cậu vẫn có những rung động tinh tế trước thiên nhiên“Tiếng ve sầu lanh lảnh càng dướn cao. Trong làn không khí oi ả của trưa hè bỗngnổi lên nhí nhảnh thấp thoáng, tiếng hót ríu rít của một đàn chim khuyên baychuyền ở những cây bàng chỗ tôi nằm”. Trên nền xã hội đen tối ấy, hình ảnh Hồngvà người mẹ giống như những vì sao lấp lánh tỏa sáng trên bầu trời. Hai nhân vậtđã đứng trên chiến tuyến của những người bảo vệ nhân phẩm, đối lập với xã hội vônhân đạo kia. Hồng và mẹ chính là “những mầm cây lành mạnh, bất chấp mọi sựvùi dập, ngày càng tươi tốt”. Người mẹ hiện lên với tình mẫu tử thiêng liêng vàcao đẹp, là biểu tượng cho hạnh phúc ấm êm nhất. Còn cậu bé Hồng, người đờicho là “lêu lổng” và “hư hỏng” thì trước mắt chúng ta giống như một “tiểu anhhùng”. Cậu bé ấy đã dũng cảm, quật cường trước những “đòn roi” của xã hội. Từmột đứa trẻ nhút nhát, mỗi lần bị mắng chửi chỉ biết nuốt giận và uất ức thì nayHồng đã biết chống trả lại. Cuộc đời sớm tự lập kiếm sống cùng với môi trường xãhội cay nghiệt rèn dũa cho Hồng tính cách mạnh mẽ một trái tim giàu mơ ước, Nguyên Hồng luôn luôn tin, một niềm tin bềnchặt vào vẻ đẹp con người. Điều này làm cho nhân vật của ông dù chịu nạn đếnđâu đi chăng nữa vẫn ánh lên vẻ đẹp của nhân ngày thơ ấu đã “nêubật vẻ đẹp chân chất của những con người cùng khổ trong một xã hội trì trệ đầyrẫy đau khổ và con người phải đối xử với nhau bằng nhiều điều tàn nhẫn. Xã hộiấy nhất định phải được thay thế bằng một mô hình xã hội nhân đạo, trong đókhông còn thấy nhan nhản những bi kịch chua xót của con người.”Trong thời kỳ đó, lòng nhân đạo của một số nhà văn lãng mạn là cái kiểuthương hại, ban ơn của những người giàu tình cảm đứng trên nghiêng mình ở Nguyên Hồng, đó là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ, là cái18Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngtình cảm tốt đẹp theo kiểu “lá lành đùm lá rách”. Bởi vậy văn Nguyên Hồng luôndạt dào cảm xúc. Trên những dòng chữ ấy lấp lánh ánh lửa nồng ấm, và sau đó là“giọt lệ lớn” của một trái tim dễ xúc Đặc sắc nghệ thuậtMột đặc điểm nổi bật và cũng là đặc điểm làm nên đặc sắc hồi ký NguyênHồng chính là tính trữ tình. Đặc điểm này bao phủ lên nghệ thuật hồi ký NguyênHồng , trở thành sợi dây đỏ xuyên suốt hồi ký Những ngày thơ ấu. Tính trữ tìnhtrong văn Nguyên Hồng cũng thể hiện con người Nguyên Hồng. Ai từng tiếp xúcvới Nguyên Hồng đều thấy rõ điều này ông rất dễ xúc động , rất dễ khóc. Khóckhi nhớ đến bạn bè đồng chí từng chia bùi sẻ ngọt; khóc khi nghĩ đến công ơn củaTổ Quốc…. “Có thể nói mỗi dòng mỗi chữ ông viết ra là một dòng nước mắt épthẳng từ trái tim vô cùng nhạy cảm của mình.” cấu tâm trạngKết cấu hồi ký Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là kết cấu tâm ký được viết đê ghi lại tâm trạng của nhà văn Nguyên Hồng trong những nămtháng ấu thơ. Khi viết hồi ký, Nguyên Hồng không hề tái hiện sự kiện theo kiểubiên niên khô cứng như một số hồi ký khác. Trái lại, dựa trên cái nền sự kiện,Nguyên Hồng tập trung vào những điểm chính yếu, sinh động nhất để tái hiện “linhkhí thời quá vãng”. Cái mà Nguyên Hồng quan tâm hơn cả là làm sao thể hiện mộtcách chính xác tâm trạng của mình trong những thời khắc khó quên sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên HồngHồi ký Những ngày thơ ấu được chia làm chín chương. Ở mỗi chương, tácgiả tập trung khai thác những sự kiện tiêu biểu nhất để rồi bộc lộ tâm trạng , suynghĩ, tình cảm của chương đầu tiên, ngay từ tiêu đề, Nguyên Hồng đã nhấn mạnh vào hình ảnh“Tiếng kèn”. Tiếng kèn mang theo biết bao sự cam chịu, nhẫn nhục của người mẹ,là cảm giác nôn nao trước hạnh phúc mỗi buổi chiều. Mỗi khi nghe tiếng kèn, tráitim thơ bé của Nguyên Hồng lại vang lên những nhịp đập rộn rã, là cảm giác vuitươi trước những hồi kèn giục giã “ Tiếng kèn vang lên, vui vẻ quá, hùng trángquá, át cả tiếng vỏ lưỡi lê đập phanh phách vào đùi và những bước chân xoànxoạt, tiếng kèn mỗi giây một dướn cao, một vang to, rung động cả làn không khíêm ả của một góc trời. Rồi nương theo tiếng gió lao xao trong những vòm câyphấp phới,âm thanh náo nức, dồn dập của tiếng kèn càng cuốn lên cao tràn ra xa,rất xa đến những vùng xa tươi sáng nào đó”. Những từ láy vui vẻ, phanh phách,xoàn xoạt, êm ả, lao xao, náo nức, dồn dập thể hiện tâm trạng náo nức của Hồnglúc theo mẹ đi nghe tiếng kèn. Một buổi chiều êm ả trước những ngày giông mỗi chương, tác giả tập trung vào những sự kiện cốt yếu, từ đó thể hiệntâm trạng, suy nghĩ, tâm tư tình cảm của chương truyện là một hồi ứckhác nhau, một cảm xúc khác ký Những ngày thơ ấu không có cốt truyện, không có những mâu ngày thơ ấu là một dòng chảy cảm xúc bất tận, những vui buồn lẫn lộntrong quãng đời thơ ấu của Nguyên Hồng. “Kết cấu tâm trạng được sử dụng thànhcông người đọc thấy đầy đủ những cung bậc cảm xúc, những rung động vô cùngbén nhạy trong con người nhà văn mà đặc biệt nổi bật là tâm hồn mỏng manh,nhạy cảm. Ta cũng hiểu thêm trong sâu thẳm của nhà văn nhân đạo này nhữn tâm20Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngtư rất riêng”. Như nhà văn Thạch Lam đã nhận xét cuốn hồi ký là những rungđộng cực điểm của một tâm hồn trẻ Nghệ thuật xây dựng nhân Hệ thống nhân vậtThế giới nhân vật trong hồi ký Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là thếgiới của những người cùng khổ, những người thuộc loại cùng đinh trong xãhộiHồng, người mẹ của Hồng, người bà…. Đó đều là những con người phải chịunhững cùng cực, đau khổ trong xã xuất hiện của con người vô thức trong con người ý thức là một điểm đặcsắc trong hồi ký. Trong tác phẩm, nhân vật có những giây phút thăng hoa cảm xúc,lấn át lí trí. Liên hệ với con người cá nhân của Nguyên Hồng, người đọc có thể dễdàng nhận thấy điểm tương đồng giữa các nhân vật trong hồi ký với con ngườiNguyên Hồng. Nguyên Hồng là một con người nhạy cảm, dễ xúc động. Ông là mộtcon người của những cảm xúc dạt dào. Bởi vậy, những nhân vật của ông thườngthiên về tình cảm hơn lí ảnh người mẹ trong tác phẩm là một ví dụ cho sự xuất hiện của conngười vô thức trong con người ý thức. Trong hồi ký Những ngày thơ ấu, người mẹcủa bé Hồng đã quyết định đi theo tiếng nói của trái tim khi quyết định đi bước nữasau khi chồng mất. Nếu như nghe theo lí trí, người mẹ có lẽ đã không có một bướcđi dũng cảm như vậy bởi lễ giáo phong kiến quy định rất nghiêm ngặt vì việcngười phụ nữ phải thủ tiết sau khi chồng qua đời. Tuy nhiên, người mẹ trong hồiký của Nguyên Hồng đã vượt lên mọi rào cản , định kiến xã hội để nghe theo tiếngnói trái tim của sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Nghệ thuật miêu tả nhân Khắc họa nhân vật thông qua hành động và ngôn ngữTrong hồi kí Những ngày thơ ấu, nhân vật của Nguyên Hồng bộc lộ một phầntính cách của mình thông qua hành động và ngôn ngữ. Những nhân vật trong hồi kíNguyên Hồng chủ yếu hiện lên chân dung tâm nhiên, với nhân vật thầygiáo và nhân vật bà cô, Nguyên Hồng đi vào đặc tả hành động và ngôn ngữ, từ đóbộc lộ tính cách nhân vật. Điển hình là nhân vật thầy giáo. Khi nghi ngờ Hồng cólời nói xúc phạm mình, thầy giáo đã có nhữgày thơ ấu” của Nguyên HồngSự thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật làm nên nét đặc sắc nổi bậtcủa hồi ký Những ngày thơ ấu. Thông qua việc miêu tả nội tâm nhân vật, nhà vănđi sâu khai thác cái của quý vô hạn là tâm hồn con người; phân tích kỹ lưỡngnhững biểu hiện, thay đổi của tâm hồn trong đời sống tâm hồn con người, khámphá những bí mật bên của thế giới bên trong con người. Từ đó, nhà văn đã có cáinhìn sâu sắc vào cái không dễ thấy của con người, đồng thời cho thấy bản lĩnh độclập và tâm hồn thanh cao của người viết. Đặt trong bối cảnh văn học Việt Nam lúcbấy giờ, những tác phẩm tiểu thuyết còn nghèo nàn, hời hợt, nông nổi bề ngoài,thiếu sâu sắc, dồi dào thì Những ngày thơ ấucủa Nguyên Hồng chính là luồng giómới mẻ cho văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Như Phan Cự Đệ đã từng nhận xét“trong tập hồi ký xúc động này, Nguyên Hồng đã lắng nghe được những âm vangsâu lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm giác tinh tế từ bên trong và diễntả chúng qua cái nhìn hồn nhiên, tươi sáng của tuổi thơ khiến cho chúng ta có cảmtưởng thú vị như được trở về thời thơ ấu của nhân loại”. Đúng như một nhận xét,Nguyên Hồng sáng tạo cuốn hồi ký không phải từ sự “gia công” nghệ thuật mà từ“những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại” Thạch Lam, một tuổi thơđau khổ của cái “tôi”tác hồi ký Những ngày thơ ấu, mỗi nhân vật là một chân dung nội tâm của nhân vật có thể được bộc lộ trực tiếp qua những dòng văn miêu tả tâmtrạng của nhân vật, có thể bộc lộ gián tiếp qua hình tượng thiên nhiên. Tâm trạngnhân vật bao trùm mọi chi tiết của tác bật nhất trong tác phẩm là chân dung nhân vật “tôi”_tác giả. Chín chươnghồi ký là những tâm trạng khác nhau của nhà văn trước mỗi biến cố, sự tâm của nhân vật Hồng được miêu tả trực tiếp qua những dòng văn đầy ắpcảm xúc và những ám ảnh khôn nguôi. Đó là tâm trạng đau khổ, phẫn uất khi nghe24Đặc sắc hồi ký “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồngbà cô nói những lời không hay về người mẹ của mình. “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi vàcăm tức sao mẹ tôi lại sợ hãi vì những thành kiến tàn ác mà xa lìa”. Tình yêuthương với người mẹ của cậu bé Hồng hiện lên qua từng câu chữ, không một chútgiấu diếm. Và tâm trạng phẫn uất ấy được đẩy lên cao khi Hồng nghe bà cô kể vềmẹ của mình. Cuộc trò chuyện với bà cô là kỷ niệm không thể quên về một nỗi đauuất nghẹn mà tuổi thơ Nguyên Hồng đã phải trải qua. Đầu tiên, bà cô gợi ý cho béHồng vào thăm mẹ. Nỗi nhớ mẹ của đứa tre từng nhiều phen “rớt nước mắt” vì“thiếu thốn một tình thương ấp ủ” lại được khơi dậy. Chú bé “im lặng cúi đầukhông đáp.” Hồng nhận ra ý nghĩa cay độc trong giọng nói rất kịch của bà mãn , bà cô tiếp tục cứa vào trái tim bé Hồng những lời nói tàn nhẫn -Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâuNỗi đau chồng chất khiến Hồng không thể nói một lời nào, chỉ biết lặng thinhtrước “hai con mắt long lanh” của bà cô. Nguyên Hồng vẫn nhớ như in cảm giáccủa mình lúc đó “lòng tôi càng thắt lại, khóe mắt tôi đã cay cay”.Dường như sự im lặng của Hồng càng làm bà cô khoái chí hơn với trò đùa độcác của mình-Mày dại quá cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào bắt mợ mày may vá sắm sửacho và thăm em bé lúc này thì Hồng không thể chịu đựng được nữa. “Nước mắt tôi đã ròngròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và cổ” . Mọi đau khổ,phẫn uất dồn nén bấy lâu vỡ òa ra trong những giọt nước mắt đắng cay ấy. Hồngkhóc cho thân phận tủi cực cho mình, khóc cho người mẹ đáng thương tội đoạn văn này, nội tâm của Hồng được bộc lộ một cách trực tiếp “Chỉ vì tôi25 Nguyên HồngNhà văn người Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia Nguyên Hồng 1918–1982, tên khai sinh Nguyễn Nguyên Hồng, là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Quick facts Nguyên Hồng, Sinh, Mất, Nghề nghiệp, Giai đoạ... ▼ Nguyên HồngSinhNguyễn Nguyên Hồng5 tháng 11, 1918Phố Hàng Cau, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định[1]Mất2 tháng 5, 1982 63 tuổiTân Yên, Bắc GiangNghề nghiệpNhà vănGiai đoạn sáng tác1936–1982Thể loạiTruyện ngắn, tiểu thuyết, kí, thơChủ đềNhững người cùng khổ gần gũi mà ông yêu thươngTác phẩm nổi bậtBỉ vỏ, Những ngày thơ ấuPhối ngẫuVũ Thị Mùi Bài nghiên cứu văn học đầu tiên của tôi là bài viết về Nguyễn Hồng. Ấy là một chương trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, viết chung giữa Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Vinh, xuất bản năm 1963. Thỉnh thoảng tôi có gặp Nguyễn Hồng, thường ở trụ sở Hội nhà văn 65 – Nguyễn Du, đôi khi ở báo Văn Nghệ 17 Trần Quốc Toản. Nguyễn Hồng cũng đến tôi mấy lần, khi ở nhà K2, khi ở nhà B2 khu tập thể cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội. Có lần ông ở cả ngày, ăn với gia đình tôi hai bữa cơm. Trông bộ dạng Nguyễn Hồng, không ai nghĩ là một nhà văn. Mặt đen sạm, để râu dài. áo cánh màu xanh chàm, bốn túi, mũ lá, dép lốp xỏ cả hai quai hậu, đi xe đạp thiếu nhi Liên Xô, mất cả chắn xích lẫn chẵn bùn, đèo đằng sau một bị cói vừa đựng tài liệu, vừa đựng một chai rượu cuốc lủi, kèm theo mấy thanh giang chẻ lạt. Lần thứ nhất, ông đến tìm tôi khi tôi ở khu nhà lá thuộc dãy nhà K2, chung quanh toàn là cán bộ giảng dạy văn học mà không ai biết dó là nhà văn Nguyên Hồng. Họ cứ nghĩ là một ông phụ huynh học sinh ở quê ra xin xỏ gì đó cho con đang học vợ tôi. Ông dắt xe vào khu nhà tập thể, hỏi thăm đúng vào thằng con tôi đang đá bóng ở đầu dãy nhà. Nó không thèm dẫn ông về nhà, mà cứ đứng từ xa chỉ chỏ. Nhưng nghe chị Ngọc Trai nói về Nguyên Hồng mới thật thương. Ngọc Trai từng ở với Nguyên Hồng trong một lớp bồi dưỡng nhà văn tại Quảng Bá. ấy là lớp học của một số cây bút trẻ chuẩn bị đi B. Ngọc Trai phụ trách quản trị. Nguyên Hồng phụ trách chuyên môn. Học viên đi B được hưởng tiêu chuẩn ăn cao hơn. Ngọc Trai và Nguyên Hồng không đi B nên không được hưởng tiêu chuẩn ấy. Vì thế ăn chung một chế độ, Ngọc Trai và Nguyên Hồng phải góp thêm tiền. Nguyên Hồng quyết định ăn nửa suất cơm. Ngọc Trai khuyên thế nào cũng không nghe. Bữa ăn, học trò thương thày cứ chia cho Nguyên Hồng cả suất như mọi người. Nguyên Hồng không bằng lòng “Lại có đứa nào ăn gian đây! Tao có nửa suất mà sao lại như mọi người?” Ngọc Trai bàn hai người ăn chung, Nguyên Hồng không nghe. Nguyên Hồng rất đạo đức và gương mẫu. Sáng dạy ông tập thể dục. Cũng đeo gạch vào balô chạy, rồi tập đi. Ngọc Trai khuyên không nghe. Nguyên Hồng đi liên hệ công tác với Vụ Tổ chức Trung ương. Ngọc Trai đề nghị liên hệ ôtô. Nguyên Hồng cũng không nghe, cứ đi xe đạp, vì cho là gần, ngay Bách Thảo thôi mà. Còn người ta coi thường vì có vẻ lúi xùi thì không lo. Ông nói “Khinh trọng là do nhân cách của mình chứ! Nguyên Hồng đi xe đạp cùng Ngọc Trai. Buồn cười lắm. Xe không có chuông. ông vừa đi vừa hô bọn trẻ con trên đường các cháu cho bác đi nhờ nào, xe đạp đây!… cứ thế suốt dọc đường. Nguyễn Tuân rất bực với Nguyên Hồng “Này sao anh lại tự làm khổ mình như vậy, anh có đến nỗi nào!”. Nguyên Hồng nói “Anh khác, tôi khác, tôi làm sao giống như anh được! Người ta có số cả. Số tôi nó thế!” Có lẽ số Nguyên Hồng thế thật. Sống cũng khổ, chết cũng khổ. Khi Nguyên Hồng chết, nhà còn có năm bơ gạo, một con gà nhỏ. Trong túi còn đúng 20 đồng. Hàng xóm cho vay cỗ quan tài. Nguyên Ngọc báo anh em lên đưa ma, nói, Nguyên Hồng nghèo lắm đấy, không có gì thết đãi đâu. Chưa làm điếu văn vội, Nguyên Ngọc trước hết lo chạy lên tỉnh, lên huyện, lên đảng uỷ xã bàn với họ cho tiền, cho lợn, cho gạo để làm ma. Hôm đưa ma Nguyên Hồng, tôi không lên được. Ngô Thảo có tả quang cảnh đám ma thật là tội nghiệp xe tang từ trên đồi đi xuống dốc, phải hò nhau đẩy trở lại làm phanh. Phường kèn toàn là thương binh cụt tay cụt chân phải là thương binh mới được vào hội kèn, ăn công điểm của hợp tác xã. Nguyên Hồng có người con cả là Hồng Hà Nguyên Hồng sinh Hồng Hà khi gia đình ông ở bãi Phúc Xá, bờ sông Hồng dạy tiếng Anh ở Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, cũng ở gần khu nhà ở của cán bộ khoa Văn Đại học sư phạm chúng tôi. Một lần biết ông đang ở chỗ Hồng Hà, tôi đến thăm. Không thể tưởng tượng được nhà ở của một cán bộ giảng dạy đại học mà lại khốn khổ đến thế. Như một cái lều vịt, dựng trên một bãi rác, sau lưng là một dãy nhà xí, cái nào cũng mất cửa. Nguyên Hồng đang ngồi uống rượu. ông nhắm rượu với một đĩa rau củ cải luộc ngọn rau, lá rau chứ không phải củ cải. Vậy mà ông cũng nhắm nháp ra vẻ đắc ý lắm. Nguyễn Đình Thi còn nói với tôi, có lần còn bắt gặp ông nhắm rượu với cơm nguội. ấy là cái hồi ông phụ trách trại bồi dưỡng nhà văn trẻ ở Quảng Bá – người ta thường gọi đùa là ông Đốc Hồng. Ông dặn mọi người, sau 10 giờ tối, ông đóng cửa phòng, làm việc riêng, không tiếp khách. Hôm ấy, Nguyễn Đình Thi có việc gì đó khẩn cấp cần gặp ông. Anh đẩy cửa phòng Nguyên Hồng sau 10 giờ tối, thấy ông đang nhắm rượu với cơm nguội. Nguyễn Đình Thi cười “Đấy, nhà văn Việt Nam ăn chơi như thế đấy!” Trở lại chuyện tôi đến thăm Nguyên Hồng ở nhà Hồng Hà. Ông nói “Chỗ này giống hệt như nơi ngày xưa tôi viết Bỉ vỏ. Chỗ viết Bỉ vỏ như thế nào? – Đây, ông viết trong lời Tựa cuốn tiểu thuyết “Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro. Bỉ vỏ đã viết xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ con khóc…” Trò chuyện với Nguyên Hồng, tôi mới biết ông bị tù từ tuổi thiếu niên. Ông có một người chú dượng thường ức hiếp, hành hạ vợ, tức là một bà cô của ông. Ông tức quá, rút dao đâm ông này và bị đưa đi trại cải tạo trẻ con hư đâu như ở Bắc Giang. Lần thứ hai ông bị tù vì tham gia phong trào thanh niên dân chủ của Đảng cộng sản cuối thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương 1936 – 1939 ông bị bắt về tội tàng trữ tài liệu cộng sản, giam ở Căng Bắc Mê, Hà Giang. Không phải ngẫu nhiên mà ông hay viết về nhà tù Bà Vỷ, Khói ken nếp và xà lim, phóng sự Tù trẻ con, Tù đàn bà, Tiểu thuyết Bỉ vỏ, Cơn bão đã đến… Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, Nguyên Hồng rất hăng hái hoạt động. Ông cùng Như Phong tích cực viết cho các báo chí tiến bộ như Thế giới, Mới, Người mới. Rất phục những chiến sĩ cộng sản trong nhóm Tin tức, muốn sáng tác theo khuynh hướng tả thực xã hội chủ nghĩa. Sau khi viết Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, ông có vị trí khá nổi nên có quan hệ với Mười Cúc, Nguyễn Thiện Chân. Lê Quang Hoà, Bùi Vũ Trụ… Ông say mê đọc Le Travail, Rasssemblement, Bạn dân, Thời thế. Đọc Gorki, La Resurrection, Voyage à Moscou của Henri Barbusse, sách của Hải Triều viết về ba nhà văn cách mạng. Đọc Ngục Kontum của Lê Văn Hiến, Một ngày ngàn thu của Tôn Quang Phiệt… Rất mê Tuyên ngôn của Đảng cộng sản b Liên Xô. Ngày ông đi nghe Trần Huy Liệu diễn thuyết ở Đấu Xảo. Phan Bôi có mở một lớp Mác xit, ông có dự cùng với Trần Quang Huy, Đào Duy Kỳ, Nguyễn Hữu Dụng, Thành Ngọc Quảng, Nguyễn Thường Khanh, Như Phong, Đào Văn Trường, Trần Đình Chi. Lớp mở ở Phạm Phú Thứ. ông nói, nghe giảng chán bỏ mẹ, đọc sách thú hơn. Ông nhớ có đọc một cuốn sách vẽ Gorki như con gà ủ các nhà văn trẻ… Lúc ấy ông tự coi mình đích thực là cộng sản rồi. Ông quyết chuyển đề tài viết về giai cấp vô sản. Ông viết về công nhân, về thợ mỏ, về phu đồn điển Một quả đấm, Đến cây số 13, Người đàn bà Tầu, Đẹp, Những giọt sữa…Ông đi vào mỏ Vàng Danh và viết Thanh niên trong bụi đen… Tinh thần lúc ấy hết sức lạc quan tin tưởng. Ông viết Nắng mới Đăng trên báo Người mới với tinh thần ấy. Năm 1939, thực dân bắt đầu khủng bố. Tháng 9 – 1939, ông bị bắt. Lý do tàng trữ tài liệu cộng sản. Đó là cuốn Tự chỉ trích của Nguyễn Văn Cừ. Lúc bị bắt, ông đọc câu thơ Tố Hữu và rất lấy làm tự hào Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin Giữ trinh bặch linh hồn trong bụi bẩn. Ở Căng Bắc Mê, Tô Hiệu mở lớp huấn luyện về lý luận. Dự lớp có Tô Quang Đẩu, Ngô Minh Loan, Hồ đen, Trần Các, Tô Dĩ, Phan Bôi, Xuân Thuỷ, Nguyên Hồng. Ông nói, chúng tôi hát rất hồn nhiên, rất say sưa, say lý tưởng, sống cứ như trong mơ… Trong tù có những hình ảnh rất đẹp. Ông nhớ hình ảnh chị Bùi Đình Đổng bụng chửa, ung dung vào xà lim với chồng, dắt theo đứa con lên ba. Đẹp nhất là hình ảnh Tô Hiệu, áo cổ lọ, mũ nồi, ngực dẹt, tiếng khàn khàn vì bị tra tấn, làm việc say mê chuẩn bị cho lớp huấn luyện. Ai dự lớp huấn luyện coi như không được tha. Trong tù, có tin Liên Xô ký hiệp ước với Đức. Lúc ấy, vấn đề đặt ra là Lý tưởng và lòng tin? Không có lòng tin thì làm sao chống lại được sức mạnh của đế quốc hết sức ghê gớm lúc bấy giờ. Nhưng nghe Tô Hiệu giảng bài, sức thuyết phục còn hơn cả sách vở. Cái feu, cái ánh sáng ở con người Tô Hiệu rất thuyết phục! Lớp học mỗi ngày giảng ba buổi. Giờ khác thì soạn bài, ghi trên giấy cuốn thuốc lá, thuốc lào, giấy gói bánh khảo. Tô Hiệu viết từ 9 giờ tối đến 2 giờ đêm… Sáng đi làm cỏ vê thì chuyển tài liệu cho các trại. Vợ chồng Bùi Đình Đổng và Tô Hiệu, sau này được Nguyên Hồng dùng làm nguyên mẫu cho mấy nhân vật cách mạng của ông trong bộ tiểu thuyết Cửa biển. Ở tù ra, Nguyên Hồng lấy vợ. Chả quen biết gì nhau đâu, chỉ nhờ mối lái mà lấy nhau. Đám cưới không có chú rể. Người ta đưa dâu về nhà chồng ở xóm Cấm, Hải Phòng, nhưng chú rể, tuy đã ra tù, vẫn phải chịu chế độ quản thúc ở Nam Định. *** Nguyên Hồng rất giầu tình cảm, rất dễ xúc động, hay khóc. Các con hay cười bố về chuyện này. Mẹ ông chết năm 1973, ông thương khóc như mưa như gió, dữ dội quá, làm cho vợ ông sợ quá, phát ốm. Lúc sống, mẹ con hay gắt nhau, thế mà lúc chết thì khóc như thế. Hôm tôi lên Nhã Nam ăn một trăm ngày Nguyên Hồng, bà Nguyên Hồng nói với tôi như vậy. Ông Hoài Thanh cho biết, Nguyên Hồng có lúc đang nói trên diễn đàn hội nghị, bỗng dừng lại “Các đồng chí cho tôi khóc một lúc đã”. Hoài Thanh có vẻ nghi ngờ sự chân thật của Nguyên Hồng, vì thấy có một cái gì không bình thường trong cách biểu hiện cảm xúc của ông. Thực ra chính vì ông có một trái tim khác thường – một trái tim lớn. Cho nên trong suốt cuộc kháng chién 9 năm, đi đâu ông cũng cõng balô tập bản thảo tiểu thuyết Sống mòn dày cộp của Nam Cao. Mùa hè ông có thể ngồi quạt cho các bạn bè ngồi viết văn. Trước cái chết oan ức và vô cùng thảm khốc của Lan Khai, ông gửi cho vợ Lan Khai những dòng chữ như viết bằng máu Sống lầm than, chết cũng lầm than Viết mọi rợ, chết vì mọi rợ. Một ngọn đèn xanh, hai dòng lệ đỏ… Kim Lân còn chứng kiến Nguyên Hồng vừa viết văn vừa khóc. Khóc nức nở. Vừa đấm lưng vừa khóc. Thương cả nhân vật do mình hư cấu ra. Trong Cửa biển, có nhân vật tên là Gái Đen, phu bến tầu Hải Phòng. Người rất tốt, gia đình có truyền thống yêu nước, nhưng lấy nhầm phải một thằng phản bội cách mạng, có mang với nó. Đau khổ quá, lúc trở dạ đẻ, cô quằn quại, vật vã, đẻ xong thì chết. Ngồi viết ở Đồi Cháy, Nhã nam, đến chỗ Gái Đen chết, ông vừa khóc vừa chạy xuống bếp, nói với cô con gái đang nấu cơm “Con ơi, Gái Đen chết rồi!”. Hôm ở trụ sở báo Văn nghệ, thuật lại chuyện này, ông cũng khóc. Nói chuyện với ông, tôi rất ngại. Vì ông khóc mà mình chẳng thấy xúc động gì cả, y như thằng không có tình cảm. Mà nhìn người đàn ông râu ria ngồi khóc, trông rất tội. Giầu lòng thương người nên Nguyên Hồng quan niệm chủ nghĩa hiện thực không tách rời tình cảm đối với nhân dân lao động. Cho nên ông không thoả mãn với chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Ông không thích Mạnh Phú Tư, Tô Hoài, cho là nhạt, không có tâm huyết, thiếu tình người. Ông thích Hồ DZếnh, đánh giá cao Am cu li xe của Thanh Tịnh là vì thế. Nguyên Hồng cho tả thực xã hội hồi ấy người ta không nói hiện thực mà nói tả thực phải gắn bó với người lao động nghèo khổ, yêu thương và có trách nhiệm với người cùng khổ. Vì thế, ông cho Nguyễn Công Hoan không phải là tả thực. Cũng vì thế mà trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, chịu ảnh hưởng của phong trào cộng sản, ông bắt ngay lấy học thuyết giai cấp. Ông tự thấy không phải không có tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc, nhưng say giai cấp hơn. Đây là chỗ khác với phần lớn các cây bút tiểu tư sản đương thời. Họ nhậy cảm với vấn đề dân tộc, còn chuyện giai cấp thì rất khó “vào”. Nguyên Hồng thì say giai cấp. Ông viết Người đàn bà Tầu 1939, ca ngợi tinh thần quốc tế của giai cấp vô sản. Người đàn bà Tầu, ông coi đấy là một bước rẽ của mình về tư tưởng và nghệ thuật. Nhưng cũng là bước rẽ vào nhà tù – ông nói với tôi như vậy. *** Lần thứ hai, Nguyên Hồng tìm đến tôi, khi gia đình tôi đã chuyển lên ở nhà B2, tầng năm. Lần này ông ở lại với gia đình tôi cả ngày Thông thường người uống rượu, thích thuốc lá, trà tầu. Nguyên Hồng đi đâu cũng xách theo chai rượu, nhưng không hút thuốc lá, uống trà tầu. Trời nóng ông chỉ xin một cốc nước lạnh. Hôm ấy đứa con gái tôi mới học lớp một. Nó đi học về, phàn nàn là cô giáo bắt làm một bài tập kể tên các loài chim có ích. Nguyên Hồng đã gợi ý giúp nó làm bài tập ấy. Tôi nhớ lần gặp ấy, Nguyên Hồng có nói một câu mới nghe có vẻ vô lý, nhưng nghiệm ra thấy rất đúng “Thày giáo Mạnh này, bọn văn xuôi chúng tôi rất dại, chỉ có bọn làm thơ là khôn”. Sự thật quả có thế. Mấy ông văn xuôi thường hay bị đánh Nguyễn Tuân Phở, Tình rừng, Tờ hoa…, Nguyên Hồng Con hổ ở Suối Cát, Nguyễn Huy Tưởng Một ngày chủ nhật, Tô Hoài Mười năm, Dế mèn phiêu lưu ký, Nguyễn Thành Long Cái gốc, Nguyễn Khải Đối mặt, rồi Phùng Quán, Trần Dần, Nguyên Ngọc, Nguyễn Dậu, Hà Minh Tuân… Còn bọn làm thơ, phần lớn là quan chức cao cấp, được Đảng tín nhiệm Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi. Thế hệ sau là Bằng Việt, Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa… Tất nhiên có ngoại lệ, nhưng không nhiều. Phần lớn đúng như Nguyên Hồng nói. Trong hoàn cảnh của chính thể ta, tôi cho Nguyên Hồng là người cứng cỏi hơn cả, bản lĩnh hơn cả. Hồi anh Nguyễn Đình Nghi đến thăm tôi, tôi có tặng anh cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, trong đó có bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết. ở bài này, tôi có ý chê Nguyễn Đình Thi thiếu dũng khí. Nguyễn Đình Nghi đọc sách và phôn cho tôi, ý nói nên thông cảm với giới văn nghệ dưới chính thể này. Anh nói, anh là con ông Thế Lữ, nên được tiếp xúc nhiều với giới nhà văn. Anh biết, chẳng ai có dũng khí được đâu, kể cả Phan Khôi, Nguyễn Tuân. Đúng thế thật. Nguyễn Tuân vẫn được tiếng là ngang bướng, vậy mà tôi nghe nói, có lần ông vừa uống rượu vừa khóc “Tôi được như thế này là vì biết sợ”. Nguyên Hồng không sợ. Hồi ông phụ trách thư ký toà soạn tuần báo Văn, tờ báo bị quy là Nhân Văn ngóc đầu dậy, ông không chịu, không cho mình là sai. Ông từ chối kiểm thảo, từ chối đi thực tế cải tạo tư tưởng, trong khi hầu hết đều tự kiểm thảo và đi thực tế Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khải, Tô Hoài đi Tây Bắc, Điện Biên, Huy Cận đi vùng mỏ, Đào Vũ đi nông thôn… Nguyên Hồng không đi. Ông khinh tuốt, cho tất cả chúng nó đều hèn. “Tao đéo chơi với chúng mày nữa” – ông tuyên bố thế và bỏ ra ngoài biên chế, đưa cả gia đình lên Nhã Nam, trở lại Đồi Cháy, nơi ông sơ tán thời khángchiến chống Pháp. Ông đã phải trả giá rất đắt cho thái độ cứng cỏi này. Đang có nhà cửa, việc làm ở Hà Nội mà lại bỏ đi như thế, ở thời bao cấp, là một hành vi hết sức dũng cảm, thậm chí liều lĩnh. Lên Nhã Nam, một phiếu gạo của ông 13 cân rưỡi nuôi 9 người một vợ và 7 con bé lắt nhắt. Lại còn mẹ ông nữa lúc ấy còn sống. Đói theo nghĩa đen! Vợ đi chăn bò cho hợp tác xã, mùa đông phải gặm một con cá mắm khô cho đỡ rét. Các con thì mò cua bắt ốc. Ăn ngô ăn khoai thay cơm. Hôm cúng 100 ngày Nguyên Hồng Nguyên Hồng mất ngày một trăm ngày là tôi có lên dự cùng với Nguyễn Xuân Sanh và Vương Trí Nhàn. Này đây là Đồi Cháy, ấp Cầu Đen đây. Nơi từng hội tụ một số gia đình văn nghệ sĩ thời kháng chiến chống Pháp Ngô Tất Tố, Kim Lân, Nguyên Hồng, Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn. Ngày xưa không biết quang cảnh thế nào, còn giờ đây chỉ có căn nhà của Nguyên Hồng. Nhà lợp ngói, tường đất gọi là tường trình. Một cái bếp. Trên chái nhà thấy còn treo một cái bàn thấp, nhỏ, gỗ tạp, giống như một cái kỷ nhưng rất thô sơ. Nguyên Hồng thường đặt bàn lên giường ngồi viết, hoặc đem ra gốc cây khế góc sân, giải chiếu ngồi làm việc. Khoảng 9, 10 giờ sáng ngày – bà Hồng kể – Nguyên Hồng đang làm việc ở gốc khế, xoay ra vác đất đắp vào chân tường nhà bếp. Tường xi măng mà không có móng, sợ chuột đào đổ, nên phải đắp đất cho vững. Bà Hồng bảo thuê thợ, ông không nghe. Trời mưa lất phất. Ông thấy mệt, giải chiếu nằm nghỉ ở bờ tre. Bà Hồng dìu về nhà ngang, sau lên nhà trên. Ông tắt thở khoảng 2 giờ chiều. Trước khi chết chỉ đập đập tay xuống giường có vẻ bực bội, nói với vợ, gọi cho Hội nhà văn. Bà Hồng thở dài “Ông ấy cả đời chả bao giờ được sướng. Uống rượu chả có gì nhắm cũng khề khà. Trông dáng dấp như anh cu li xe ngồi nhắm rượu ở vỉa hè. Túng thiếu thế, nhưng có tiền tiền sách là cúng ngay cho xã để xây dựng trường học 300 đồng”. Tôi thấy trong nhà có một cái tủ ọp ẹp, không có khoá, mở ra thấy chất đầy bản thảo của Nguyên Hồng. Tôi tìm thấy một cuốn nhật ký. Đọc mấy trang, thấy hoàn cảnh gia đình Nguyên Hồng hồi ấy thật bi đát. Tôi có ghi được mấy đoạn Nhà tôi đi lĩnh ngô về thì bị hen. Tôi lại phải làm cơm… Sáng tôi đi chợ Nhã Nam mua dây khoai cho lợn ăn bữa cuối cùng. Khoai lang bán 11 đồng một gánh, tôi không dám mưa. Mua thêm chục mớ rau muống để về cấy. Tôi đến hàng chị Lương xem ra làm sao, nhưng không mua được gì cả. Tôi đã bắt đầu viết bản thảo ba “Đôi chim tan lạc và anh bộ đội”. Tôi sang huyện. Mua đôi dép cho Thư 5đ5 và bé Diệu cái bàn chải đánh răng. Xin mua được 3 thếp giấy và 2 cân dầu. Nhà tôi trả trâu. Cái Nhã cắt cỏ, cái Thế đi chăn lần cuối cùng “Trâu ơi! Tao giả mày, tao nhớ mày lắm!”. Nó tần ngần mãi khi đưa trạc cho cái Hạnh. Mẹ tôi đi xin cơm cho con mèo mướp. Vợ tôi nhá ngô cho các gà con. Tôi giằm ngô, những hột nở mềm nhất cho mèo ăn. Chủ nhật trống rỗng. Bầu Hội đồng nhân dân tỉnh. Nhã bắt được 40 con cua. Nhã nấu canh cua với rau khoai lang. Tôi nhắm rượu với mấy con cua con xào tỏi… Thư, Nhã làm đất trồng rau dền. Bãi rau muống đã hái được. Cái Diệu khoe “Nhà cái Quỳnh sắp nhịn đói, nhà ta nhịn đói đã từ lâu rồi!”. Hôm nhà tôi ốm, nó cũng khoe với các bạn Quỳnh, Các ”Bu tao sắp chết rồi!” Nhà tôi rên lên “Phải, tao sắp chết rồi đây” Tình cảnh Nguyên Hồng như thế mà không ai dám cứu. Hội nhà văn, Tỉnh uỷ Bắc Giang, Hội Văn nghệ Hải Phòng đều sợ, không dám hỏi han gì đến. Nhưng hoàn cảnh như thế mà Nguyên Hồng vẫn viết, hết Cửa biển 4 tập, mỗi tập 500 trang lại Núi rừng Yên Thế. Lao động như thế, ăn uống như thế, ông sống được đến ngoài 60 tuổi kể cũng giỏi!. Bản lĩnh Nguyên Hồng như thế nên Nguyễn Tuân rất phục. Khi Nguyên Hồng mất, người ta làm lễ viếng ở 51 Trần Hưng Đạo. Nguyễn Tuân phát biểu, vừa nói vừa khóc. Ông còn nói với chị Ngọc Trai “Người ta cứ bảo tôi bướng, chứ tôi bướng sao bằng Nguyên Hồng!” Chính trong lễ viếng Nguyên Hồng hôm ấy, chị Lê Minh, phụ trách mục Văn nghệ trên báo Nhân dân, đặt tôi viết một bài về Nguyên Hồng. Tôi viết một hơi bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, lấy chuyện mau nước mắt của ông làm lời kết “Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy liệu có bao giờ khô cạn được chăng?”. *** Nguyên Hồng, trong sinh hoạt, có nhiều cái hết sức nhếch nhác. Xem Cát bui chân ai của Tô Hoài thì đủ rõ. Nhưng có lẽ chưa bao giờ ông lâm vào tình trạng nhục nhã, ê chề như trường hợp kể sau đây. Tôi có một anh bạn thân tên là Trần Văn Lộc. Lâu ngày quá, giờ tôi không còn nhớ đã quen Lộc trong trường hợp nào và từ bao giờ. Hồi xưa anh học Sư phạm trung cấp ở Khu học xá Việt Nam tại Nam Ninh Trung Quốc. Sau lại về học tiếp ở Đại học Sư phạm Hà Nội. Có một hồi không hiểu sao anh lại tự sát nhưng cứu được. Tôi đến thăm anh ở bệnh viện, anh ôm lấy tôi khóc ồ ồ, rất tội. Trần Văn Lộc là em ruột Trần Văn Nhung. Hồi Nhật đảo chính Pháp ở Hà Nội Trần Văn Nhung theo Nhật đánh Pháp và bị tử thương. Thời gian học ở khu học xá Nam Ninh, Lộc bị bệnh sa ruột gọi là sa đì phải vào chữa ở bệnh viện Nam Ninh. Đúng lúc ấy, Nguyên Hồng cũng sang điều trị tại đấy, và cũng bị bệnh ấy. Bị bệnh này thì phải giải phẫu. Giải phẫu thì phải làm vệ sinh cẩn thận, trước hết phải cạo hết lông ở quanh dương vật rồi bôi thuốc sát trùng. Nguyên Hồng lên bàn mổ trước. Mấy cô y tá Trung Quốc trẻ trung, hồng hào, trắng trẻo, làm công việc này một cách rất tỉ mỉ, cẩn thận, nên kéo dài rất lâu. Nguyên Hồng hoảng quá. Phải làm sao át đi những ý nghĩ bậy bạ. Ông bèn nghĩ đến đất nước đang có chiến tranh, khói lửa mịt mù, nhân dân cực khổ. Nhưng không sao át được. Cái ấy dần dần cương lên. Nhưng cô y tá cứ tiếp tục công việc một cách tỉ mỉ kỹ lưỡng. Cuối cùng một việc “quốc sỉ” đã xẩy ra, nó vọt vào áo của cô y tá. Cô gái cứ coi như không có chuyện gì, thản nhiên lau chùi đi và tiếp tục công việc của mình. Giải phẫu xong, Nguyên Hồng về phòng, kể nỗi nhục nhã này với Trần Văn Lộc. Lộc sợ quá, vội buông màn, tự làm vệ sinh trước. Con người này quá giầu xúc cảm, lại giầu tưởng tượng. Xuân Diệu nói Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn là thế. Nhưng lý trí yếu, không làm chủ được. Nguyên Hồng có 7 con. Vợ cứ đẻ sòn sòn. Xuân Diệu thì rất ghét người đẻ nhiều, vô kế hoạch. Đi đâu ông cũng tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch. Ông bực với Nguyên Hồng “Sao đẻ nhiều thế?”. Nguyên Hồng có câu trả lời rất lạ “Vì vợ tôi nó xấu”. Xuân Diệu kể với tôi chuyện này, và nói anh không hiểu được ý nó muốn nói gì. Tôi nghĩ chắc là không làm chủ được cảm xúc, không làm chủ được bản năng thế thôi. *** Nhưng Nguyên Hồng có mấy ông con thật không ra gì. Luôn oán bố. Bố chết rồi vẫn thù oán. Tô Hoài nói với tôi như vậy. Đang yên đang lành ở Hà Nội, đùng đùng đưa cả nhà lên cái quả đồi sỏi đá heo hút, khiến vợ con đói khát, phải mò cua bắt ốc, ăn khoai ăn sắn. Nhưng bố chết rồi vẫn còn thù oán thì quá tệ. Mà cái lý do ông bỏ biên chế, bỏ Hà Nội, phải nói là rất đáng phục chứ! Hồi Hải Phòng tổ chức một cuộc hội thảo về Nguyên Hồng nhân ngày giỗ đầu của ông Nguyên Hồng vốn là chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng, người ta cho xe đón Hồng Hà anh con cả của Nguyên Hồng đi dự. Anh ta không đi. Vào khoảng 1986, 1987, tôi có biên soạn cuốn Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp. Tôi nói với Hồng Hà về bảo mẹ kể lại những kỉ niệm về bố rồi viết lại cho tôi một bài để đưa vào tập sách. Anh ta không làm. Thế mà sinh thời, Nguyên Hồng từng làm một bài thơ dài rất thống thiết “Hồng Hà, con ơi!” Tôi lo lắng cho cái tủ không khoá ở Nhã Nam dựng các bản thảo, nhật kí của Nguyên Hồng, nay có còn không? Nguyên Hồng còn có một người con trai khác tên là Giang vẫn ở Nhã Nam. Hôm tôi lên thăm mộ Nguyên Hồng, có gặp Giang. Anh ta không nói gì về sự nghiệp của bố mà cứ khuyên tôi nghiên cứu Tản Đà. Mà cứ nói đi nói lại mấy lần. Trong khi đó, chưa có ai sưu tầm tài liệu để làm Toàn tập Nguyên Hồng. Đúng là Nguyên Hồng chết rồi vẫn khổ! Láng Hạ Nguyên Hồng là người hiểu rõ về số phận của những con người cùng cực trước Cách Mạng. Bản thân ông có nhiều tác phẩm để đời lột tả rõ bộ mặt của đám thực dân và sự thống khổ của người dân dưới ách đô hộ của Hồng là ai?Con đường đến với văn học của nhà văn Nguyên Hồng như thế nào?Nguyên Hồng mất khi nào?Nguyên Hồng là ai?Tiểu sử nhà văn Nguyên HồngNguyên Hồng là một trong những nhà văn có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học hiện đại. Ông sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 tại Vụ Bản, Nam Định. Năm 12 tuổi, Nguyên Hồng mồ côi cha mẹ đi bước nữa trong sự ruồng bỏ, hắt hủi và nhất là chịu cảnh “cấm vận” của gia đình nhà chồng, không được gần gũi, chăm sóc con mình. Thiếu tình yêu thương, Nguyên Hồng sống nhờ vào người cô và chịu sự rẻ rúng, khinh miệt của Hồng ham đọc sách từ nhỏ. Ông thường dành tiền thuê sách để đọc và dường như đọc hết những quyển sách mình thích ở cửa hàng cho thuê sách tại Nam Định. Loại sách Nguyên Hồng thích thuở nhỏ là truyện lịch sử Trung Hoa, trong đó những nhân vật có khí phách ngang tàng, trung dũng, những hảo hán chiếm cảm tình của ông nhiều 16 tuổi khi mới học hết bậc tiểu học, ông cùng mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm chợ nghèo; sau đó ông về Thủ đô Hà Nội công tác và đến gần cuối đời Nguyên Hồng “dứt áo” khỏi chốn thị thành thực hiện cuộc “xê dịch” cuối cùng về Bắc đường đến với văn học của nhà văn Nguyên Hồng như thế nào?Năm 1936 ông bắt đầu viết văn, trình làng với truyện ngắn “Linh Hồn” đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Nhưng ông chỉ thực sự gây tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết đầu tay “Bỉ Vỏ” khi mới 19 tuổi. “Bỉ Vỏ” được đánh giá là “bức tranh xã hội sinh động về thân phận những con người nhỏ bé dưới đáy” như Tám Bính, Năm Sài Gòn… “Bỉ Vỏ” không chỉ có ý nghĩa là một giải thưởng văn chương danh giá của “Tự lực văn đoàn, 1937”, mà điều quan trọng kể từ đó, tác phẩm đã xác lập vị trí, uy tín, danh tiếng của nhà văn Nguyên Hồng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ 1936-1939 ở Hải Phòng. Cũng trong khoảng thời gian này, ông viết tập hồi kí “Những ngày thơ ấu” là một tập hồi ký viết về tuổi thơ cay đắng khắc nghiệt của chính tác giả- nhà văn Nguyên Hồng. Hồi ký được đăng trên báo năm 1938, xuất bản thành sách vào năm tác phẩm văn học tiêu biểu của Nguyên HồngTháng 9 năm 1939, Nguyên Hồng bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê Hà Giang năm 1940. Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng… Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt 1957, ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1958, Nguyên Hồng lặng lẽ rời cả gia đình từ thủ đô để trở về thôn Cầu Đen, Quang Tiến, Bắc thể nói quãng thời gian sống ở Hải Phòng đã cho ông “chất bột” để ông “gột nên hồ” với hàng loạt tác phẩm văn xuôi. Đó là trang in 4 tập bộ tiểu thuyết “Cửa biển” đồ sộ trong thời gian dài từ 1961-1976 “Sóng gầm” 1961, “Cơn bão đã đến” 1963, “Thời kỳ đen tối” 1973, “Khi đứa con ra đời” 1976… ngồn ngộn hơi thở cuộc sống lao động, đấu tranh ở miền đất đầy sóng và tiểu thuyết cuối cùng của ông là “Núi rừng Yên Thế” được viết năm 1980. Cuốn này đang viết dở thì sức khỏe ông yếu đi và ông qua đời trước khi nó hoàn thành ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên Bắc Giang.Từng trang văn của ông là từng trang đời thấm đẫm nước mắt, số phận của con người những năm tháng trước Cách mạng. Đó là những con người sống dưới đáy xã hội, những người nghèo, những thân phận bất hạnh, cô đơn, những con người yếu thế nhưng bao giờ cũng cố vươn lên đấu tranh để bảo vệ nhân phẩm của Hồng mất khi nào?Nguyên Hồng qua đời ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên Bắc Giang do sức khỏe một nhà văn của nhân dân, với những cống hiến quan trọng, Nguyên Hồng là một trong số 14 nhà văn Việt Nam vinh dự được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên năm 1996.

hồi ký nguyên hồng