Đi Lễ Chùa Khấn Như Thế Nào? Bài Khấn Đi Đền. Theo phong tục cổ truyền, trong các ngày rằm, mồng một, ngày lễ Phật giáo, Tết nguyên đán, hoặc những ngày gia đình có việc hệ trọng, người Việt thường đến chùa lễ Phật, thành tâm cầu khấn hồng ân chư Phật, chư đại Bồ Tát, Hiền Thánh Tăng gia hộ cho Tổ chức và điều hành; ĐGM tiền nhiệm; ĐGM đương nhiệm; GM & LM đã qua đời; Linh mục đoàn (cập nhật 01.05.2022) Giáo hạt giáo xứ; Thông báo. Tòa Giám mục; Ủy ban - Hội đoàn; Giáo hạt - Giáo xứ; Lich sinh hoat tai TTMV; Thông báo khác; Tin tức-sự kiện. Tin Giáo phận; Tin Giáo Ở mỗi đơn vị đình, miếu, đền thường chỉ thờ 1 vị thánh thần theo tín ngưỡng của địa phương (đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, miếu thủy thần thờ thần nước, đình làng thờ Thành hoàng là của mỗi địa phương…). Chùa là nơi thờ Phật, Bồ Tát cùng những Tag: chùa lớn nhất miền bắc Tết đến xuân về là dịp các gia đình đi lễ chùa, cầu cho một năm mới an lành, may mắn. Đi Chung Taxi sẽ gửi đến bạn thông tin 10 ngôi chùa nổi tiếng thiêng nhất miền Bắc mà bạn nên đi vào dịp đầu năm bao gồm cách di chuyển? Trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt Nam có rất nhiều nơi thờ cúng khác nhau như đình, đền, chùa, miếu, phủ, quán, am,Nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa của những địa điểm thờ cúng đó. Cho nên có rất nhiều người đi chùa mà không hiểu được ý nghĩa của việc đi chùa, ở gần nhà có Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão (Đạo giáo). Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và Teug2. Đình làng Đình Bảng. Bài viết này sẽ giúp bạn đọc dễ dàng phân biệt được các địa điểm thờ cúng khác nhau, hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng và những nhân vật được thờ cúng trong đó. Chùa là gì? Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là gì? Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là gì? Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu là gì? Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam. Nghè là gì? Một hình thức của đền miếu, thờ thần thánh. Đây là kiến trúc thường có mối quan hệ chặt chẽ với một di tích trung tâm nào đó. Nghè có khi thờ thành hoàng làng ở làng nhỏ, được tách ra từ làng gốc như Nghè Hải Triều Cẩm Giàng – Hải Dương. Nghè cũng có thể là một ngôi đền nhỏ của một thần trong xã nhằm thích ứng với dân sở tại để tiện việc sinh hoạt tâm linh khi ngôi đền chính khó đáp ứng được nhu cầu thờ cúng thường nhật, như Nghè ở Trường Yên là một kiến trúc phụ của đền vua Đinh. Hiện ngôi nghè cổ nhất được tìm thấy từ thế kỷ XVII. Điện thờ là gì? Điện là sảnh đường cao lớn, thường chỉ chỗ Vua Chúa ở, chỗ Thần Thánh ngự. Như vậy Điện thờ là một hình thức của Đền, là nơi thờ Thánh trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Tuy vậy quy mô của Điện nhỏ hơn Đền và Phủ, lớn hơn so với Miếu Thờ. Điện thông thường thờ Phật, thờ Mẫu, Công đồng Tam tứ phủ, Trần Triều và các vị thần nổi tiếng khác. Điện có thể của cộng đồng hoặc tư nhân. Trên bàn thờ thường có ngai, bài vị, khám, tượng chư vị thánh thần và các đồ thờ khác tam sơn, bát hương, cây nến, đài, lọ hoa, vàng mã,… Phủ là gì? Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII. Quán là gì? Quán là một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất giống như một đền thờ thần thánh. Bích Câu đạo quán. Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng. Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây cũ nay là Hà Nội. “Thăng Long Tứ quán” bao gồm Chân Vũ quán tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên cổ quán nay là chùa Quán Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên. Am là gì? Hiện được coi là một kiến trúc nhỏ thờ Phật. Gốc của Am từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây… cũng có khi am là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Miếu thờ thần linh ở các làng hoặc miếu cô hồn ở bãi tha ma cũng gọi là Am./. Ngày nay, hầu hết các địa điểm thờ cúng đều gắn với tôn giáo, tín ngưỡng, và tùy theo đối tượng được thờ mà có tên gọi khác nhau. Cùng Đồ đồng Việt nhận đúc tượng Phật uy tín chất lượng tìm hiểu qua bài viết sau. Phân loại theo quy mô địa điểm thờ cúng 1. Am và Chùa đều là nơi thờ Phật nhưng Am có quy mô nhỏ hơn chùa và thường hoạt động riêng lẻ. Chùa là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni mang tính chất tập thể – Chùa mà có khoảng từ 20 vị tăng tu tập trở lên gọi là Tu Viện. – Chùa có hệ phái khất sĩ gọi là Tịnh Xá ở trong miền Nam. – Những nơi tu tập có khu tăng, khu ni, có nhiều khu, nhiều chùa gọi là Đại Tòng Lâm. 2. Đình, Đền, Miếu, Điện đều là nơi linh thiêng thờ Thánh, Thần. Đình thường thoáng, cao, rộng, phù hợp với hội họp làng xã. Còn Đền, Miếu, Điện thường tối hơn, tạo cảm giác thiêng liêng, huyền bí cho người tới cầu cúng lễ bãi. Nhìn chung, Miếu có cấu trúc nhỏ hơn Điện, Điện nhỏ hơn Đền và Đền nhỏ hơn Đình Miếu < Điện < Đền < Đình. Thông thường mỗi làng chỉ có 1 Đình nhưng có thể có nhiều Đền, Miếu. 3. Phủ là nơi thờ Mẫu và truyền bá đạo Mẫu. Tuy nhiên cũng có nhiều phủ thờ cả Phật, đây được coi như sự giao thoa hòa nhập giữa các tôn giáo, tín ngưỡng. 4. Quán là nơi tu luyện và thờ cúng của Đạo giáo. Tại Việt Nam các nền văn hoá tín ngưỡng thường giao thoa hoà nhập với nhau rất sâu đây cũng là nét đặc trưng văn hóa tín ngưỡng tại Việt Nam. Có khi Chùa thờ cả Thần kiến trúc Tiền Phật hậu Thánh, Chùa thờ cả Mẫu Tiền Phật hậu Mẫu… Vì thế sự phân biệt ở đây là không rõ ràng trong đối tượng thờ cúng. Các bạn nên đặc biệt lưu ý đặc điểm này để tránh việc cầu xin không đúng ban, đúng chỗ, cũng như đặt lễ và hành lễ sai nghi thức. Ví dụ để đồ mặn, đồ vàng mã ở Ban thờ Phật hoặc để đồ sống ở ban thờ Mẫu. Tham khảo thêm đúc chuông chùa ở đâu uy tín? Ngay bản thân Đền, nếu đi sâu tìm hiểu sẽ rất phức tạp, khó phân loại. Có nơi thờ Nam thần, có nơi thờ Nữ thần. Thông thường đền thờ Nam thần thì to hơn Nữ thần nhưng đền thờ Nữ thần thì lại nhiều ban thờ hơn như ban Tứ phủ công đồng, ban Cô, ban Cậu. Tuy nhiên, hiện lại có 1 số đền thờ Nam thần lại cũng có ban thờ Mẫu, rồi thờ Cô, thờ Cậu… Đình, đền, chùa, miếu mạo … là những địa điểm thờ cúng trong đời sống tâm linh của người Việt. Nhưng không phải ai cũng biết ý nghĩa của các công trình này thờ ai, khác nhau thế nào và văn khấn thế nào. Đền thờ vua Hùng – một công trình trong quần thể Đền thờ vua Hùng Đền là nơi thờ những nguời thật, việc thật.. có công, có sức ảnh huởng to lớn đến tinh thần nguời dân họ tạo cho nguời dân tin tuởng, sùng bái và đuợc phong thánh hoặc thần giống như Hưng Đạo Vuơng Trần Quốc Tuấn, Bác Hồ.. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. Miếu thờ Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có quy mô nhỏ hơn đền. Miếu thường ở xa làng, yên tĩnh, thiêng liêng và là nơi thờ các vị thánh thần. Khi miếu phối hợp với thờ Phật thì được gọi là Am, ở Nam bộ gọi là Miễu. Miếu và đền về kiểu mẫu thì giống nhau, chỉ khác nhau về quy mô. Các miếu thường thờ các vị thần như miếu thổ thần, thủy thần, sơn thần, miếu cô, miếu cậu… Miếu Nhị Phủ ở thành phố Hồ Chí Minh – của người Hoa Chùa Việt Nam Chùa là công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng của đạo Phật, đây là thờ Phật đồng thời là nơi ở sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng ni. Đây là nơi những tín đồ đạo Phật lui tới để nghe thuyết giảng và thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Ở một số nơi, chùa cũng là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Việt Nam có một số chùa lớn như chùa Bái Đính, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương… Kiến trúc chùa Tây Phương Đình Làng Đình là công trình kiến trúc cổ truyền của làng quê Việt Nam, là nơi thờ Thành hoàng và cũng là nơi hội họp của người dân. Ban đầu, đình là điểm quán để nghỉ của các làng mạc Việt Nam. Đến khoảng giữa thế kỷ 13, vua Trần Nhân Tông cho đắp các tượng Phật ở các đình quán. Sau đó, đến thời Lê sơ, các đình làng bắt đầu là nơi thờ thành hoàng làng và là nơi hội họp của dân chúng. Đình làng thường được bố trí ở trung tâm làng xã, địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước. Trong tiềm thức văn hóa người Việt, đình làng gắn liền với hình ảnh cây đa, giếng nước, là địa điểm sinh hoạt chung và hồn vía của làng xã. Các ngôi đình nổi tiếng như Đình Bảng, đình Thổ Hà, đình Bát Tràng… Đình Bảng Bắc Ninh Phủ thờ Phủ thường là nơi thờ Mẫu – phủ Gầy, phủ Tây Hồ… một số nơi thờ tự không nhất thiết thờ Mẫu ở Thanh Hóa cũng gọi đền là phủ. Suy cho cùng phủ là một nơi thờ tự Thánh mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ VVII. Quán Một dạng đền gắn với đạo Lão Đạo giáo. Tùy theo từng thờ mà có các dạng thức thờ tự khác nhau. Vào các thế kỷ XI và XIV đạo Lão ở Việt nặng xu hướng thần tiên nên điện thờ thực chất chỉ như của một ngôi đền thờ vị thần thánh cụ thể. Bích câu đạo quán Như Bích Câu đạo quán thờ Tú Uyên, rồi đền thờ Từ Thức… Sang tới thế kỷ XVI và XVII, sự khủng hoảng của Nho giáo đã đẩy một số nhà Nho và một bộ phận dân chúng quan tâm nhiều tới Lão giáo, và điện thờ đạo Lão có nhiều sự phát triển mới, với việc thờ cúng các thần linh cơ bản theo Trung Hoa. Đó là Tam thanh Nguyên Thủy Thần Tôn, Linh Bảo Đạo Quân, Thái Thượng Lão Quân, Ngũ Nhạc mà nổi lên với Đông Phương Sóc và Tây Vương Mẫu, rồi Thánh Phụ, Thánh Mẫu. Cửu Diệu Tinh Quân Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt Trời, Mặt Trăng, Hồ phủ, Kế đô đồng thời trên chính điện cũng có cả tượng của Hoàng Quân giáo chủ Ngọc Hoàng – Có thể kể tới các quán điển hình như Hưng Thánh Quán, Lâm Dương Quán, Hội Linh Quán, Linh Tiên Quán… đều ở Hà Tây. Am Hiện được coi là một kiến trúc nhà thờ Phật. Gốc của Am được nghĩ tới từ Trung Quốc, được mô tả như ngôi nhà nhỏ, lợp lá, dùng Làm nơi ở của con cái chịu tang cha mẹ, về sau đổi kết cấu với mái tròn, lợp lá, làm nơi ở và nơi đọc sách của văn nhân. Từ đời Đường, Am là nơi tu hành và thờ Phật của ni cô đặt trong vườn tư gia. Với người Việt, Am là nơi thờ Phật Hương Hải am tức Chùa Thầy, Thọ Am tức Chùa Đậu – Hà Tây… cũng có khi là ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của xóm làng – Vào thế kỷ XV thời Lê sơ Am còn là nơi ở tĩnh mịch để đọc sách làm thơ của văn nhân. Như vậy, đền, miếu, đình là những công trình kiến trúc xuất phát ban đầu từ tín ngưỡng thờ cúng dân gian, nơi đây thờ các vị thánh thần theo truyền thuyết dân gian hoặc những vị anh hùng có công với đất nước, với địa phương được nhân dân tôn xưng là thánh Đức Thánh Trần, Thánh Gióng, thành hoàng làng…. Ở mỗi đơn vị đình, miếu, đền thường chỉ thờ 1 vị thánh thần theo tín ngưỡng của địa phương đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, miếu thủy thần thờ thần nước, đình làng thờ Thành hoàng là của mỗi địa phương…. Chùa là nơi thờ Phật, Bồ Tát cùng những nhân vật trong hệ phái Phật giáo. Do ảnh hưởng tư tưởng Tam giáo đồng nguyên Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo từ thời nhà Lý nên một số ngôi chùa còn thờ đồng thời cả Phật, Thái thượng Lão quân và Khổng Tử. Việc thờ Phật ở chùa, thờ thánh thần ở đình, đền, miếu và tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có điểm chung đó là đều xuất phát từ lòng biết ơn, thành kính hướng tới những người có công cứu rỗi cho cộng đồng, địa phương, những người có công tái tạo và dưỡng dục những thế hệ con người. Đó đều là những hoạt động tâm linh quan trọng trong đời sống văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Sưu tầm Tham khảo bài viết về những điều cần biết về thiết kế trước khi dựng nhà Liên hệ Chuyên gia thiết kế nhà gỗ Nguyễn Huy Khiêm Địa chỉ Thôn Phú Đa, Cần Kiệm, Thạch Thất, Hà Nội Điện thoại0936 247 222 07/04/2023 Đời sống tâm linh là một phần quan trọng trong cuộc sống của người Việt, thậm chí được quan tâm chăm chút có phần nhỉnh hơn so với đời sống vật chất thường ngày. Đây là một truyền thống có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam, được gìn giữ và lưu truyền qua các thế hệ. Đi từ cực Bắc Hà Giang cho đến mũi Cà Mau, có thể dễ dàng nhận ra những hệ thống thờ tự với nhiều dạng thức phong phú đa dạng. Trong đó, nổi bật và chiếm đa số có thể nhắc đến như đình, đền và chùa. Cùng là nơi thờ phụng, thực hành tâm linh của người dân, nhưng đình, đền và chùa có nhiều điểm khác biệt, được xây dựng nhằm phục vụ những mục đích không hoàn toàn giống nhau. Đình Thời xa xưa, đình làng chỉ là một nơi để nghỉ chân. Đến năm 1231, thượng hoàng Trần Huy Tông xuống chiếu chỉ cho đắp tượng Phật ở đình quán. Năm 1491, vua Lê Thánh Tông cho xây dựng Quảng Văn đình ngoài cửa Đại Hưng nay là Cửa Nam, Hà Nội, là nơi để dân đánh trống kêu oan và bố cáo những chính sách của triều đình. Đến thời Lê Sơ, đình làng mới dần định hình chức năng thờ Thành hoàng và là nơi hội họp của người dân trong làng. Mọi công việc quan trọng của làng đều được tổ chức ở đây. Tục thờ Thành hoàng bắt đầu du nhập vào nước ta từ thế kỉ XV, trở nên phổ biến rộng rãi vào thế kỉ XVI. Các làng quê ở miền Bắc chịu ảnh hưởng của phong tục này sâu sắc hơn làng quê miền Nam – vốn mới được hình thành các năm sau này. Thành hoàng là một vị thần không có tên tuổi, lai lịch cụ thể, được xem là vị thần “hộ quốc tỳ dân”, trấn giữ an nguy cho địa phương nơi vị thần ấy được thờ tự. Kiến trúc của những ngôi đình được xây dựng dựa trên những nguyên tắc phong thuỷ. Địa điểm xây đình thường được chọn tại vị trí trung tâm, thuận tiện cho dân làng hội họp vào các dịp lễ hội. Đình làng thường nhìn ra sông, hoặc phải có ao, giếng làng phía trước cho đúng thế “tụ thuỷ”, là điềm mang lại sự thịnh vượng cho cả làng. Đền Khác với đình làng, đền thờ là công trình được xây dựng để thờ một vị thần cụ thể, có tên tuổi rõ ràng trong tôn giáo hoặc tín ngưỡng địa phương, ví dụ như đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Quán Thánh, đền Gióng,… Nhiều nơi, đền được xây dựng để thờ những vị quan giỏi tướng tài, có công với đất nước, dân tộc, như đền thờ Vua Hùng, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Đức Thánh Trần,… Đền thờ thường được xây dựng tại địa điểm được cho là gắn liền với xuất thân hoặc nơi diễn ra các sự tích liên quan đến các vị thần. Với các danh tướng, người có công với dân tộc, đền thờ thường được đặt tại quê hương các Ngài hoặc những nơi tôn nghiêm, trang trọng. Người dân đến đền dâng hương để bày tỏ sự biết ơn, tưởng nhớ đến các vị thần, các anh hùng dân tộc, đồng thời bày tỏ ước ao được che chở, có nhiều may mắn cũng như thừa hưởng những đức tính uy dũng của các Ngài. Chùa Chùa là một công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng. Chùa trong tiếng Hán Việt có nghĩa là “tự viện”, là nơi an trí tôn tượng các vị Phật và Bồ Tát, là chỗ lưu trú, tu tập của các vị tăng ni. Dù theo đạo Phật hay không có bất cứ một tín ngưỡng nào, bất cứ ai cũng có thể viếng thăm chùa mà không gặp trở ngài nào. Nếu như đình thường được xây dựng tại trung tâm làng xã, đền xây dựng ở những nơi gắn liền với các điển tích lịch sử, thì chùa, thường được xây dựng ở những khu vực yên tĩnh, tách biệt với cộng đồng làng xã, thường gặp nhất là trên những đỉnh núi cao. Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình riêng biệt mà là một quần thể kiến trúc, gồm nhiều công trình nhỏ đặt cạnh nhau như đại điện, khu vực lưu trú của tăng ni, các gian thờ phụ, nơi lưu trú cho khách, nhà bếp,… Tuỳ theo các nhánh nhỏ trong Phật giáo mà kiến trúc chùa cũng có sự khác biệt. Theo nhà nghiên cứu Lý Khắc Cung thì đình nằm ở một không gian trung tâm, rộng lớn và có phong cảnh đẹp của làng quê Việt Nam. Có ngôi đình của làng và cũng có ngôi đình chung cho nhiều xã. Từ giữa đời Trần mọi sinh hoạt chính trị, kinh tế, xã hội đều diễn ra ở đình. Đình còn là nơi nghỉ ngơi, dừng chân của Vua, quan khi vi hành, tuần du. Đình là nơi thờ cúng Thành Hoàng, là nơi thực thi lệ làng thu thuế, xét xử, khao vọng, ngả vạ…. Theo nhà nghiên cứu Lý Khắc Cung thì đình nằm ở một không gian trung tâm, rộng lớn và có phong cảnh đẹp của làng quê Việt Nam. Có ngôi đình của làng và cũng có ngôi đình chung cho nhiều xã. Từ giữa đời Trần mọi sinh hoạt chính trị, kinh tế, xã hội đều diễn ra ở đình. Đình còn là nơi nghỉ ngơi, dừng chân của Vua, quan khi vi hành, tuần du. Đình là nơi thờ cúng Thành Hoàng, là nơi thực thi lệ làng thu thuế, xét xử, khao vọng, ngả vạ…. Lễ Tết, hội hè, diễn xướng đều thực hiện ở đình và sân đình. Đình là nơi nhân dân giao tiếp, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn. Đình là một tập hợp kiến trúc mở, không có tường bao quanh. Nội thất và ngoại thất của đình được trang trí nguy nga, độc đáo. Nhiều đình có các bức tượng, phù điêu được khắc chạm công phu. Vào đình phải qua cổng tam quan và sân đình. Đình thường có các cột gỗ to; có cổng to, có bể nước mưa, có hòn non bộ. Đình thường có 3 gian dài chính tẩm là gian ở giữa, bên trong có bệ thờ, sau bệ thờ là hậu cung đặt tượng Thành Hoàng ngồi trên ngai sơn son thếp vàng. Mái đình thường lợp ngói âm dương, viên nọ ốp lên viên kia và bò lên nóc cao, có 4 góc cong vút với những ngọn đao trang trí. Hai bên đình có hai dãy nhà phụ để chứa kiệu bát cống, long đình, cờ, biển, trống, chiêng, quạt, các đồ lễ tế, rước xách… Còn có gian riêng gọi là nhà hậu dùng để cúng hậu. Có nơi trước mặt đình còn có kiến trúc nhỏ gọi là phương đình hoặc bái đình.. Những đình nổi tiếng ở nước ta là ở Đình Bảng, Chu Quyến, Tây Đằng, Triều Khúc, Kim Liên, Chèm… Theo thông tin trên mạng thì chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần Chùa Thầy ở Hà Tây và Chùa Láng ở Hà Nội thờ Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông, thờ tam giáo Phật – Lão – Khổng, thờ Trúc Lâm Tam tổ Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền"... Một số người cho rằng từ "chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật. Theo câu tục ngữ Việt Nam "đất vua, chùa làng", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan niệm phong thuỷ. Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ hay tay hổ ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ nền dương có tay hổ vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả. Phía sau không nên có núi áp kề, thế là đất tốt...

chùa đền và đình khác nhau như thế nào