Hãy chọn đáp án mà em cho là đúng nhất: Câu 1.Chữ viết phổ biến của người Ấn Độ là: Chữ tượng hình Chữ phạn Chữ khơ me cổ Chữ Nôm BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM Hãy chọn đáp án mà em cho là đúng nhất: Câu 2. Ấn Độ thời phong kiến trải qua các vương triều: Học Kanj Kanj Look and Learn (5/5) Tiếng Nhật Đơn Giản Tổng hợp từ vựng 512 Kanj cơ bản trong giáo trình KANJI LOOK AND LEARN và Luyện tập từ vựng nhằm giúp các bạn học dễ dàng hơn. DANH SÁCH TỪ VỰNG MIMIKARA OBOERU - BÀI 1. Nó liên quan đến trần của ngôi chùa hang động Phật giáo đặc biệt, "Hang động 465", được vẽ bằng hình ảnh của "Năm vị Phật". Nhưng các nhà nghiên cứu không thể đọc được chữ Phạn màu đỏ đã mờ viết dưới chân của mỗi vị trong số năm vị Phật vì các chữ cái đã bị "lật". Việc xóa nạn mù chữ được ráo riết xúc tiến trên toàn quốc sau Cách mạng Tháng Tám khiến cho đến thời gian 1954 - 1975 tiếng Việt trở nên thống nhất ở mức độ cao hơn hẳn, chính tả chữ quốc ngữ cũng trở nên chính xác hơn ở cả hai miền Nam Bắc, và ngược lại Quá trình hình thành và phát triển của chữ viết Cham-pa: người Chăm đã bỏ các phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm và một số ký hiệu mới được bổ sung thành một dạng chữ Phạn-Champa, theo các nhà nghiên cứu tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm tiêu biểu được viết bằng chữ Nôm. Tác phẩm không chỉ đưa tên tuổi của Nguyễn Du lên một tầm cao mới mà còn làm rạng rỡ nền văn học dân tộc. Đáp án cần chọn là: B ZABJr77. Template1000 bài cơ bản TemplateThiếu nguồn gốc TemplateTóm tắt về ngôn ngữ Tiếng Phạn zh. Phạm/Phạn ngữ 梵語; sa. saṃskṛtā vāk संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là saṃskṛtam संस्कृतम् là một cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là nam Phạn và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo. Nó có một vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độ và các văn hóa vùng Đông Nam Á tương tự như vị trí của tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp trong châu Âu Trung Cổ; nó cũng là kết cấu trọng điểm của truyền thống Ấn giáo/Phệ-đà, nhưng ở một mức độ cao cấp hơn. Ngày nay nó là một trong nhiều ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ, mặc dù tiếng Hindi hindī हिन्दी và các thứ tiếng địa phương khác ngày càng được dùng phổ biến. Khác với quan niệm phổ biến, tiếng Phạn không phải là một ngôn ngữ chết. Nó vẫn còn được dạy trong các trường học và tại gia khắp nước Ấn, tuy chỉ là ngôn ngữ thứ hai. Một số người Bà-la-môn vẫn xem tiếng Phạn là tiếng mẹ đẻ. Theo một thông tin gần đây, tiếng Phạn được phục hưng như một tiếng địa phương thực dụng tại làng Mattur gần Shimoga, Karnataka. Tiếng Phạn phần lớn được dùng như một ngôn ngữ tế tự trong các nghi lễ của Ấn Độ giáo dưới dạng ca tụng và chân ngôn sa. mantra. Tiền thân của tiếng Phạn cổ là tiếng Phệ-đà zh. 吠陀, en. vedic sanskrit, một ngôn ngữ được xem là một trong những thành viên cổ nhất của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, và văn bản cổ nhất của nó là Lê-câu-phệ-đà zh. 棃俱吠陀, sa. ṛgveda. Bài này nhấn mạnh vào Hoa văn Phạn ngữ như nó được hệ thống hoá bởi Ba-ni-ni zh. 巴尼尼, sa. pāṇini vào khoảng 500 trước CN. Hầu hết những bài văn tiếng Phạn được truyền miệng qua nhiều thế kỉ trước khi được ghi lại tại Ấn Độ trong thời kì trung cổ. Contents 1 Lịch sử Từ nguyên Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu 2 Âm vận và cách viết Nguyên âm đơn Nguyên âm mang tính chất phụ âm Phức hợp âm Phụ âm Nhấn giọng pitch Hợp biến sandhi Chữ viết 3 Ngữ pháp Hệ thống động từ Hữu hạn định, vô hạn định Thời thái, số và hình thức Phân loại động từ Vị tha ngôn, vị tự ngôn Chủ động, bị động Gốc động từ, thân động từ Phân độ nguyên âm Hệ thống động từ hiện tại Hệ thống động từ hoàn thành quá khứ Hệ thống động từ đệ tam quá khứ Hệ thống động từ vị lai Động từ Cách chia Hậu tố động từ căn bản Cách chia động từ thời hiện tại Cách chia các động từ bất quy tắc Hệ thống danh từ Thân mẫu âm Thân phụ âm Thân có âm kết thúc -a Thân có âm kết thúc -i và -u Thân có âm kết thúc là nguyên âm dài, đơn âm tiết Thân có âm kết thúc -ṛ Nhân xưng đại danh từ Hợp thành từ Quy tắc tạo hợp thành từ Cú pháp Số từ 4 Ảnh hưởng Ấn Độ ngày nay Tương quan giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ hệ Hán-Tạng Cái "chết" của tiếng Phạn 5 Xem thêm 6 Tham khảo 7 Liên kết ngoài Lịch sử Từ nguyên [[Tập tinDevimahatmya Sanskrit MS Nepal tiếng Phạn của Devīmāhātmya trên lá cọ, theo lối viết cổ Bhujimol, của Bihār hoặc Nepāl, thế kỷ 11]] Saṃskṛta là một quá khứ phân từ thụ động được hình thành từ tiếp đầu âm sam, có nghĩa là "gom lại", "đầy đủ" và gốc động từ √kṛ với nghĩa là "làm". Như vậy thì saṃskṛta có nghĩa là "được làm đầy đủ". Theo quan niệm Ấn Độ, cái được làm đầy đủ, trọn vẹn là tốt nên saṃskṛta cũng được hiểu là "toàn hảo". Các nhà dịch kinh Phật từ Phạn sang Hán dịch saṃskṛta là Phạn Phạm 梵, có nghĩa là thuộc về Phạm thiên, thuộc cõi trời thanh tịnh, thiêng liêng và theo nghĩa này danh từ Phạn ngữ zh. 梵語 được dùng. Một cách gọi khác là Nhã ngữ zh. 雅語. Theo định nghĩa trên thì tiếng Phạn luôn là một ngôn ngữ cao cấp được dùng trong những lĩnh vực tôn giáo và khoa học, đối nghịch với những loại ngôn ngữ bình dân. Bộ văn phạm cổ nhất còn được lưu lại là Sách ngữ pháp tám chương sa. aṣṭādhyāyī của Ba-ni-ni sa. Pāṇini, được biên tập vào khoảng thế kỉ thứ 5 trước CN. Bộ này cơ bản là một bộ ngữ pháp quy định, phán định prescriptive thế nào là tiếng Phạn đúng, thay vì mang tính chất miêu tả descriptive. Tuy nhiên, nó vẫn hàm dung những phần miêu tả, phần lớn miêu tả những dạng từ ngữ Phệ-đà đã không còn phổ biến vào thời của Ba-ni-ni. Mặc dù hầu hết những người học tiếng Phạn cũng đã nghe câu truyện truyền thống là tiếng Phạn đã được sáng tạo và tinh chế qua nhiều thế hệ theo truyền thống là hơn một thiên niên kỉ cho đến lúc được xem là toàn hảo. Khi danh từ saṃskṛta xuất hiện tại Ấn Độ, nó không được hiểu là một ngôn ngữ đặc thù, khác biệt so với những ngôn ngữ khác người Ấn thời đó thường xem ngôn ngữ là phương ngôn, tức là những thứ tiếng địa phương, mà chỉ là một cách ăn nói tao nhã đặc biệt, có một mối tương quan với các ngôn ngữ địa phương như trường hợp tiếng Anh "chuẩn" có mối tương quan với những loại phương ngôn được dùng tại Vương quốc Anh hoặc Hoa Kỳ. Kiến thức tiếng Phạn là một dấu hiệu của địa vị xã hội và học vị, được truyền dạy qua sự phân tích chặt chẽ những nhà văn phạm Phạn ngữ như Ba-ni-ni. Hình thái của ngôn ngữ này xuất phát từ dạng Phệ-đà có trước và các học giả thường phân biệt giữa tiếng Phạn Phệ-đà vedic sanskrit và tiếng Phạn cổ classical sanskrit. Tuy nhiên, hai ngôn ngữ này rất giống nhau về nhiều mặt, chỉ khác nhau phần lớn ở một vài khía cạnh âm vận, từ vị và ngữ pháp. Cũng một số người cho rằng, Ấn Độ thời xưa có nhiều phương ngôn khác nhau và tiếng Phạn cổ là một trong những phương ngôn, Phệ-đà là một cấp bậc cổ hơn của một trong những phương ngôn này. Tiếng Phệ-đà có khuynh hướng chuyển các từ Ấn-Âu l ल् thành r र्, chuyển ḍ ड् và ḍh ढ् thành ḷ ऌ và ḷh ळ giữa các nguyên âm với l uốn lưỡi. Tiếng Phệ-đà là ngôn ngữ của những bộ kinh Phệ-đà, những thánh điển xuất hiện sớm nhất tại Ấn Độ và cũng là cơ sở của Ấn Độ giáo. Bộ kinh Phệ-đà cổ nhất, Lê-câu-phệ-đà, được biên tập trong thiên niên kỉ thứ hai trước CN. Các dạng từ ngữ Phệ-đà được lưu truyền cho đến giữa thiên niên kỉ thứ nhất trước CN. Vào khoảng thời gian này, tiếng Phạn thực hiện một bước chuyển biến từ một ngôn ngữ thứ nhất thành một ngôn ngữ thứ nhì của tôn giáo và học thức, đánh dấu bước khởi đầu của thời kì Hoa văn. Một dạng tiếng Phạn được gọi là tiếng Phạn sử thi epic sanskrit được tìm thấy trong những trường sử thi như Mahābhārata và những sử thi khác. Dạng tiếng Phạn này hàm dung nhiều thành tố prākṛta, là những thành phần vay mượn từ ngôn ngữ "bình dân", so với Hoa văn Phạn ngữ chuẩn. Cũng có một ngôn ngữ được các học giả gọi là Phật giáo tạp chủng phạn ngữ Buddhist Hybrid Sanskrit; nó thật sự là một dạng prākṛta với những thành phần tiếng Phạn được dùng để tô hoạ thêm. Người ta tìm thấy một mối quan hệ rất gần giữa những dạng tiếng Phạn và những dạng phương ngôn Trung Ấn Middle Indo-Aryan Prākrits, hoặc giữa những ngôn ngữ địa phương phần lớn kinh điển Phật giáo và Jaina giáo được ghi lại dưới dạng này và những ngôn ngữ Ấn-Âu hiện đại. Các dạng ngôn ngữ Prākrit có lẽ xuất phát từ tiếng Phệ-đà và người ta cũng tìm thấy sự ảnh hưởng giữa các dạng tiếng Phạn sau này và các dạng Prākrit khác nhau. Và cũng có sự ảnh hưởng hai chiều giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ Nam Ấn thuộc hệ ngôn ngữ Dravida như tiếng Tamil. Công trình nghiên cứu tiếng Phạn tại châu Âu, được khởi công bởi Heinrich Roth và Johann Ernst Hanxleden, đã dẫn đến sự đề nghị một hệ ngôn ngữ Ấn-Âu của Sir William Jones và vì thế đã giữ một vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngành ngữ học châu Âu. Thật như vậy, ngành Ngữ ngôn học cùng với Âm vận học xuất phát đầu tiên trong giới nghiên cứu văn phạm Ấn Độ, những người đã tìm cách mục lục hoá và lập điều lệ các quy tắc trong tiếng Phạn. Ngữ ngôn học hiện đại chịu ảnh hưởng rất lớn của những nhà văn phạm này và cho đến ngày nay, những thuật ngữ then chốt cho sự phân tích hợp từ đều được lấy từ tiếng Phạn. Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu Tiếng Phạn thuộc nhóm ngôn ngữ Ấn-Aryan của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu và, như vậy, nó có cùng gốc với phần lớn các ngôn ngữ châu Âu hiện đại, và cũng cùng nguồn với những ngôn ngữ châu Âu cổ như tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Mối quan hệ có thể được minh hoạ qua hai từ cha và mẹ sau đây Tiếng Phạn pitṛ पितृ phát âm gần như pi-tri và mātṛ मातृ phát âm gần như ma-tri Tiếng Latinh pater và mater Tiếng Hi Lạp cổ παηρ và μηηρ Điểm đáng chú ý là sự tương đồng trong cấu trúc ngữ pháp, ví như giới tính hay giống, chức năng của các sự kiện hay cách, thời thái và hình thức hay trạng. Tiếng Phạn còn giữ tất cả tám sự kiện hoặc cách của ngôn ngữ Ấn-Âu gốc Cách chủ ngữ hay chủ cách nominative Cách trực bổ accusative, hay Trực tiếp thụ cách Cách dụng cụ instrumental Cách gián bổ dative, hay Dữ cách, Vị cách Cách tách li ablative hay Nguyên uỷ, Đoạt cách Cách sở hữu genitive, hay Thuộc cách Cách vị trí locative, hay Ư cách Cách xưng hô hay Hô cách vocative Thêm vào số một và số nhiều, tiếng Phạn còn có số hai khi chia động từ hoặc biến hoá danh từ. Điểm giống nhau giữa các tiếng Latinh, cổ Hi Lạp và Phạn đã đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngành nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu. Âm vận và cách viết [[Tập tinAsokan brahmi pillar Brahmī trên cột trụ của vua A-dục]] Bảng chữ cái tiếng Phạn bao gồm 13 mẫu âm, 33 phụ âm và 2 âm bổ sung. Cho 46 + 2 âm này thì hệ thống chữ viết Devanāgarī dành cho mỗi chữ một ký tự riêng biệt. Vì có nhiều âm và ký tự hơn bảng chữ cái Latinh nên khi phiên âm chuẩn mực, người ta cần có một loạt dấu đặc biệt—người Âu châu gọi là diacritics, Hán gọi là Khu biệt phát âm phù hiệu zh. 區別發音符號—hoặc phối hợp các ký tự khác nhau để ghi cách phát âm. Qua việc bổ sung năm phát âm phù hiệu Dấu sắc cho âm hàm trên cọ xát răng palatal sibilant như trường hợp ś Dấu ngã cho giọng mũi lưỡi đụng hàm trên palatal nasal, trong trường hợp ñ và phối hợp một phụ âm +h cho những âm có hơi đưa ra aspiration, như trường hợp kh, người ta có thể trình bày tất cả những âm tiếng Phạn bằng các ký tự Latinh. Nguyên âm đơn Devanāgarī IAST HK Cách phát âm Đứng riêng hoặc đầu chữ Dấu nguyên âm trong chữ Tiếng Việt—Anh IPA अ a a phát âm a ngắn, nghiêng chút về âm ơ—gut ʌ आ ा ā A phát âm dài gấp đôi a—father aː इ ि i i phát âm i ngắn—pin i ई ी ī I phát âm dài gấp đôi i—tweak iː उ ु u u phát âm u ngắn—push u ऊ ू ū U phát âm dài gấp đôi u—moo uː ऋ ृ ṛ R phát âm như ri, nhưng chỉ đọc phớt chữ i—một số phương ngữ Mỹ đọc như bird r̩ ॠ ॄ ṝ RR như ṛ, nhưng dài gấp đôi—y trang, nhưng dài hơn và bị rung r̩ː ऌ ॢ ḷ L đọc như li, nhưng chỉ đọc phớt chữ i—pickle l̩ Nguyên âm mang tính chất phụ âm ṛ, ṝ, and ḷ được xem là nguyên âm, nhưng cũng mang tính chất phụ âm do đó thường được biết như consonantal vowel. Một vài nhà văn phạm truyền thống nhắc đến chữ ḹ ॡ, dạng dài của ḷ, nhưng chữ này không được tìm thấy trong các văn bản thật sự, chỉ có ở một vài tác phẩm văn phạm đặc thù, có lẽ được đưa ra chỉ để tạo tính tương đồng với những nguyên âm khác. Phức hợp âm Tất cả các phức hợp âm diphthongs đều được phát âm dài. Devanāgarī Chuyển tự Cách phát âmp Đứng riêng hoặc đầu chữ Dấu nguyên âm trong chữ Tiếng Việt—Anh IPA ए े e phát âm như ê—hay eː ऐ ै ai phát âm như ai—bite aːj ओ ो o phát âm như ô—snow oː औ ौ au phát âm như au—pow aːw Nguyên âm có thể được tăng thêm âm mũi tị âm hoá, nasalized. Phụ âm Âm môi labial Âm môi răng labiodental Âm răng dental Âm uốn lưỡi retroflex Âm vòm palatal Âm vòm miệng mềm velar Âm cổ họng pharyngeal Tử âm stop Không có tống khí unaspirated p TemplateUnicode b TemplateUnicode t TemplateUnicode d TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode c ch TemplateUnicode j TemplateUnicode k TemplateUnicode g TemplateUnicode Có tống khí aspirated ph TemplateUnicode bh TemplateUnicode th TemplateUnicode dh TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode ch chh TemplateUnicode jh TemplateUnicode kh TemplateUnicode gh TemplateUnicode Âm mũi nasal m TemplateUnicode n TemplateUnicode TemplateUnicode N TemplateUnicode ñ J TemplateUnicode TemplateUnicode G TemplateUnicode Bán nguyên âm semivowel v TemplateUnicode y TemplateUnicode Âm lưu chuyển liquid l TemplateUnicode r TemplateUnicode Âm ma sát fricative s TemplateUnicode TemplateUnicode S TemplateUnicode ś z TemplateUnicode TemplateUnicode h TemplateUnicode Tuỳ âm ं ṃ biến đổi theo nguyên âm đi trước, tăng thành phần giọng mũi của nguyên âm. Ví dụ saṃsāra đọc như sangsāra, saṃhitā đọc như sanghitā. Tuỳ âm tăng phần âm mũi của nguyên âm trước những phụ âm y, r, l, v, ś, ṣ, s. Nhấn giọng pitch Trong tiếng Phạn, đặc biệt là tiếng Phạn Phệ-đà, các âm tiết được nhấn mạnh bằng một dấu thanh âm điệu, có nghĩa là âm tiết được nhấn mạnh có một thanh điệu khác. Các nhà văn phạm Ấn Độ truyền thống định nghĩa ba thanh udātta "cao thanh", anudātta "không cao thanh" và svarita "có âm điệu". Thông thường, khi ký âm người ta dùng dấu acute ॔ để trình bày âm cao udātta, và dùng dấu grave ॓ cho an-udātta. Thanh điệu svarita chỉ xuất hiện như kết quả của sự phối hợp giữa các nguyên âm theo quy tắc tạo âm điệu nghe êm tai euphony và vì thế, nó ít xuất hiện. Hợp biến sandhi Nếu hai chữ trực tiếp đi theo nhau thì ta thường thấy sự biến đổi trong âm kết thúc của chữ đầu và khởi âm của chữ thứ hai vì nguyên do giản hoá và êm tai euphony abcd efgh → abcx efgh, hoặc abcd yfgh, hoặc abcx yfgh Trong văn cảnh nhất định, hai chữ đã biến đổi thường được viết chung và như vậy, việc phân biệt và nhận ra một chuỗi chữ đã biến đổi, thậm chí chưa quen không phải là dễ. Ví dụ như nhận chữ abcxyfgxzjkl là chuỗi chữ abcd efgh ijkl Sự biến đổi âm cũng có thể xảy ra trong một chữ, ví dụ như trường hợp âm kết thúc của thân và âm đầu của phần đuôi suffix gặp nhau, với kết quả là âm kết thúc của thân và khởi âm của phần đuôi biến đổi. Sự biến đổi về âm này được ngữ pháp Phạn ngữ truyền thống gọi là sandhi, dịch sát nghĩa là "kết hợp", "liên hợp". Vì âm đọc biến đổi nên từ "hợp biến" cũng trình bày rất chính xác sự việc. Người ta phân biệt hai loại hợp biến, hợp biến trong câu ngoại hợp biến và hợp biến ngay trong một chữ nội hợp biến. Tóm tắt hết các luật hợp biến thì có khoảng 25 luật. Sau đây là một vài ví dụ cho những quy luật âm vận cực kì phức tạp này rāmaḥ atra tiṣṭhati → rāmo ’tra tiṣṭhati tatra + udyānaṃ kṛṣati → tatrodyānaṃ kṛṣati gṛhe + ācāryaḥ + tiṣṭhati → gṛha ācāryastiṣṭhati Chữ viết [[Tập tinRigveda bản Lê-câu-phệ-đà sa. ṛgveda viết tay, bằng chữ Thiên thành sa. devanāgarī]] Tiếng Phạn không có một chữ viết đặc thù nhìn theo khía cạnh lịch sử. Vua A-dục dùng chữ Brahmī ghi lại lời văn của mình trên những cột trụ không phải tiếng Phạn mà là những ngôn ngữ khác hoặc những phương ngôn khác. Khoảng cùng thời với chữ Brahmī, người ta cũng đùng chữ Kharoṣṭhī đang được hiệp hội Unicode duyệt nhập. Sau một thời gian thế kỷ 4 đến thế kỷ 8, chữ Gupta, vốn được phát triển từ chữ Brahmī lại thịnh hành. Từ khoảng thế kỉ thứ 8 trở đi, chữ Śarada được phát triển từ chữ Gupta và trở nên thông dụng, nhưng lại được thay thế hoàn toàn bởi chữ Devanāgarī, với trung gian là chữ Siddham Tất-đàm tự. Những chữ khác được dùng để ghi tiếng Phạn là Kannada ở miền Nam, chữ Grantha ở những vùng nói tiếng Tamil, chữ Bengali và những chữ khác ở những vùng miền Bắc Ấn. Từ thời trung cổ và đặc biệt trong thời hiện đại, chữ Devanāgarī Thiên thành tự hình, là "chữ được dùng ở thành của chư thiên" rất thông dụng và trở thành chữ viết chính cho tiếng Phạn. Ở những vùng chữ Devanāgarī không là chữ viết của tiếng địa phương thì người ta có thể tìm thấy những văn bản tiếng Phạn vẫn được viết bằng những phương ngôn này. Tại Ấn Độ, chữ viết được đưa vào tương đối trễ và cũng không trở thành một phương tiện quan trọng vì khẩu truyền vẫn được xem là phương tiện hạng nhất để truyền trao kiến thức. Thomas William Rhys Davids đưa kiến nghị là chữ viết có lẽ được du nhập từ Trung Đông bởi các thương gia. Nhưng tiếng Phạn, vốn được dùng gần như chỉ trong khung cảnh tôn giáo linh thiêng vẫn giữ chức năng ngôn ngữ truyền miệng cho đến thời kì Hoa văn. Từ thế kỉ 19, tiếng Phạn đã được ký âm dùng bảng chữ cái Latinh. Tiêu chuẩn phổ biến nhất là IAST International Alphabet of Sanskrit Transliteration, được dùng làm chuẩn học thuật từ 1912. Các phương án khác cũng được phát triển khi người ta phải đối đầu những khó khăn khi trình bày chữ Phạn trên máy tính. Thuộc vào những phương án này là Harvard-Kyoto và ITRANS, một phương án ký âm không tổn thất được dùng nhiều trên mạng toàn cầu đặc biệt là Usenet. Cho những tác phẩm học thuật, chữ Devanāgarī được chuộng dùng để trình bày toàn văn bản tiếng Phạn và những trích dẫn dài. Tuy nhiên, sự trích dẫn những thuật ngữ đặc thù và tên riêng trong những văn bản được viết bằng chữ Latinh vẫn đòi hỏi cách ký âm tiếng Phạn bằng chữ Latinh. 684x684px Sanskrit in modern Indian scripts. Ngữ pháp Hệ thống động từ Hữu hạn định, vô hạn định Hệ thống động từ Phạn ngữ phân biệt giữa động từ hữu hạn định finite và động từ vô hạn định infinite. Khác các dạng động từ vô hạn định, tất cả các động từ hữu hạn định đều có đuôi được lập theo ngôi xưng personal suffix. Các dạng động từ hữu hạn định phân biệt giữa các loại ngôi xưng, số, thời gian, hình thức và dạng phân biệt chủ/thụ động. Nên biết là hệ thống động từ hữu hạn định trong tiếng Phạn rất phức tạp và hàm chứa rất nhiều cách chia. Thời thái, số và hình thức Các động từ hữu hạn định finite verb trong Phạn ngữ phân biệt giữa thời thái, số và hình thức. Về thời thái, tiếng Phạn có sáu thời thái Hiện tại present Thể chưa hoàn thành imperfect Thể hoàn thành perfect Quá khứ bất định aorist Tương lai future. Phạn ngữ phân biệt giữa một thời vị lai đơn giản và một vị lai nói vòng periphrastic, và vị lai đơn giản là dạng thường gặp hơn. Câu điều kiện conditional diễn đạt một sự kiện có thể xảy ra nếu các điều kiện quy tụ, hoặc cảm thán. Ví dụ "Giá mà cô ấy có ở nhà!" Trong ba dạng quá khứ thì Bất định quá khứ ít xuất hiện so với hai dạng kia. Cả ba dạng quá khứ vốn khác nhau một cách vi tế về mặt ngữ nghĩa semantic Vị hoàn thành thể chỉ một hành động nằm trong quá khứ xa hơn trước lời trần thuật và được thấy bởi người nói; Hoàn thành thể cũng chỉ một hành động nằm trong qua khứ xa trước ngày lời trần thuật được nói nhưng không được chứng kiến bởi người trần thuật; Bất định quá khứ thì lại trình bày quá khứ gần, chỉ một hành động xảy ra ngay ngày nói. Tuy nhiên, trong Hoa văn Phạn ngữ classical sanskrit thì những điểm khác nhau về ngữ nghĩa đã mất và cả ba đều được sử dụng không khác nghĩa. Thêm vào đó Phạn ngữ còn có ba hình thức Chỉ thị indicative hay Biểu thị Mệnh lệnh imperative, biểu thị yêu cầu, mệnh lệnh. Ví dụ "Hãy đi chỗ khác!" Kì nguyện optative, diễn đạt một ước nguyện, ví dụ "Cầu mong tôi thi đậu!". Cách sử dụng gần giống như câu điều kiện. Các dạng chia động từ tiếng Phạn còn phân biệt giữa Ngôi thứ và Số. Ngoài số ít và số nhiều, tiếng Phạn còn có thêm một số thứ ba là số hai dual. Tuy nhiên, số hai rất ít thấy so với số ít và số nhiều. Số ít anh/cô ấy/nó đi Số hai hai anh/cô, hai nó đi Số nhiều các anh/cô ấy, chúng nó đi. Ngôi thứ cũng có ba ngôi thứ nhất tôi, chúng tôi, ngôi thứ hai anh, các anh và ngôi thứ ba cô ấy, các chị ấy. Như vậy thì mỗi cách chia động từ cho từng 6 thời thái present, imperfect, perfect, aorist, future, conditional và từng 3 hình thức imperative, optative, indicative bao gồm 3 ngôi × 3 số = 9 dạng. Ví dụ như động từ đi, √gam, có 9 dạng chia như sau Số ít Số hai Số nhiều Ngôi thứ nhất Tôi đi Hai chúng tôi đi Chúng tôi đi Ngôi thứ hai Anh đi Hai Anh đi Các Anh đi Ngôi thứ ba anh/cô ấy, nó đi hai anh/cô ấy/đứa nó đi chúng nó đi Phân loại động từ Có tổng cộng 10 nhóm động từ. Mười nhóm này lại được phân thành hai loại, thematic, tạm dịch là hợp quy tắc và athematic, tạm dịch là bất quy tắc. Các nhóm hợp quy tắc bao gồm 1, 4, 6, 10. Đặc điểm của các nhóm này là đuôi của thân động từ lúc nào cũng là –a. Như vậy thì thân động từ hiện tại lúc nào cũng được gắn thêm tiếp vĩ âm –a hoặc một tiếp vĩ âm có đuôi –a. Thêm vào đó là thân động từ hiện tại của những nhóm thematic không biến đổi khi động từ được chia. Tất cả những nhóm khác — 2, 3, 5, 7, 8, và 9 — đều là athematic. Các nhóm động từ này thiếu đặc điểm –a và thân động từ biến đổi khi được chia. Vị tha ngôn, vị tự ngôn Khi chia động từ cho 6 thời thái và 3 hình thức thì tiếng Phạn còn phân biệt giữa hai dạng Vị tha sa. parasmaipada và Vị tự sa. ātmanepada. Parasmaipada nguyên nghĩa là "câu nói liên hệ đến người khác", được dịch ở đây là Vị tha ngôn và theo các nhà ngữ pháp Ấn Độ thì đây có nghĩa là chủ thể thực hiện một hành động cho người khác, trong khi ātmanepada, "câu nói cho chính mình", Vị tự ngôn, thì lại chỉ một hành động được chủ thể làm cho riêng mình. Ví dụ Parasmaipada "anh ấy/cô ấy/nó cúng tế cái gì đó cho/giúp một người khác" Ātmanepada "anh ấy/cô ấy/nó cúng tế cái gì đó cho chính mình" Tuy nhiên, Hoa văn Phạn ngữ thường không phân biệt giữa hai cách chia động từ này và cách phân chia parasmaipada/ātmanepada thường chỉ là hình thức bề ngoài. Như thế thì mỗi dạng trong năm thời thái và ba hình thức của Phạn ngữ lại có thêm hai cách chia khác nhau. Cả hai loại chia parasmaipada/ātmanepada đều mang nghĩa chủ động. Chủ động, bị động Tiếng Phạn cũng phân biệt giữa hai dạng năng/chủ động active và bị/thụ động passive. Nhưng người ta chỉ tìm thấy cách chia thể bị động trong 2 của 6 thời cũng như ba hình thức. Trong bốn thời còn lại thì thể bị động được thay thế bằng cách biến hoá động từ theo vị tự cách sa. ātmanepada. Gốc động từ, thân động từ Trong tiếng Phạn, mỗi động từ đều có một dạng trừu tượng được liệt kê trong từ điển và được gọi là gốc động từ verb root. Các dạng khác nhau của một động từ đều được hình thành từ gốc động từ này. Trong khi một động từ trong Anh và Đức ngữ được thâu nhập vào từ điển dưới dạng bất định infinitive, có khi gọi không chính xác lắm là "nguyên mẫu" thì trong tiếng Phạn, nó được ghi lại dưới dạng gốc. Như thế thì tất cả các động từ trong Phạn ngữ đều được liệt kê trong từ điển dưới dạng gốc. Một dạng động từ hữu hạn định finite được hình thành khi ta lập một thân động từ từ gốc động từ bằng cách biến đổi hoặc mở rộng gốc động từ, ví dụ như thêm vào một tiếp vĩ âm hay hậu tố, hoặc một tiếp đầu âm hay tiền tố, hoặc một từ trùng reduplication hoặc một cách chuyển mẫu âm ngay trong gốc động từ. Sau đó, các nhân xưng tiếp vĩ âm được gắn thêm vào. Ví dụ Gốc động từ pac nấu ăn Thân động từ dạng hiện tại pac-a nấu ăn Dạng động từ hiện tại pac-a-ti ông ta, cô ấy, nó nấu Thân động từ dạng vị lai pak-ṣya sẽ nấu Dạng động từ vị lai pak-ṣya-ti ông ta, cô ấy, nó sẽ nấu Như vậy thì dạng động từ ngôi thứ ba, số ít, hiện tại, vị tha của √pac "nấu ăn", được hình thành trước hết qua sự tạo một thân động từ dạng hiện tại bằng tiếp vĩ âm –a, sau đó nhân xưng tiếp vĩ âm dành cho ngôi thứ ba là –ti được thêm vào. Trường hợp hình thành dạng vị lai cũng tương tự như vậy. Trước hết, thân động từ vị lai pak-ṣya được tạo, sau đó nhân xưng tiếp vĩ âm được gắn vào. Những thành phần được dùng để tạo một thân và chia động từ bao gồm động từ tiếp đầu âm hay tiền tố động từ, động từ tiếp vĩ âm hay hậu tố động từ và động từ sáp nhập âm hay nội tố động từ. Hiện tượng phân độ nguyên âm vowel gradation cũng thường được thấy. Phân độ nguyên âm Dưới "phân độ nguyên âm" các nhà văn phạm hiểu một sự chuyển biến của nguyên âm hoặc phức hợp âm dưới nhiều dạng của một âm tiết căn bản. Các dạng khác nhau này có thể được hình thành qua sự biến đổi âm cuối của danh từ flexion hoặc một sự diễn sinh từ một chữ gốc nhất định derivation. Theo các nhà văn phạm truyền thống thì các mẫu âm đơn như a, ā, i, ī, u, ū, ṛ, ṝ, ḷ, thường được biến đổi, và sự biến đổi này lại có hai phân độ, được gọi là guṇa, có thể gọi là cường hoá, là tăng độ mạnh, và vṛddhi tức là kéo dài. Hai cấp guṇa và vṛddhi của các mẫu âm đơn nhìn cụ thể như sau Nguyên âm đơn a, ā i, ī u, ū ṛ, ṝ ḷ Phân độ guṇa a, ā e o ar al Phân độ vṛddhi ā ai au ār — Các nguyên âm của hai cấp guṇa và vṛddhi trên tương ưng với biến âm khi các mẫu âm đơn căn bản được biến hoá bằng cách đặt mẫu âm a– phía trước. Nêu lưu ý là a không biến đổi ở cấp guṇa và ā vẫn giữ dạng gốc ở cả hai cấp guṇa và vṛddhi. Khi gốc động từ được biến hoá, ví dụ như khi thân động từ hiện tại được hình thành, ta thường thấy sự biến đổi âm theo hai phân độ trên. Ví dụ như ṛ—ar—ār. Một ví dụ tiêu biểu khác là động từ hṛ "nắm lấy, giữ lấy". Thân động từ với mẫu âm ṛ được thay thế bằng ar ở cấp guṇa har-a-ti, và khi chia ở dạng sai khiến causative thì được thay bằng ār ở cấp vṛddhi hār-aya-ti. Hệ thống động từ hiện tại Hệ thống động từ thời hiện tại bao gồm hiện tại với những hình thức khác nhau là kì nguyện optative, mệnh lệnh imperative và hư nghĩ subjunctive, cũng như vị hoàn thành quá khứ imperfect vì hai thời thái này đều có cùng thân động từ hiện tại. Thân động từ hiện tại được lập bằng nhiều cách, được trình bày bên dưới. Số đi trước chỉ số nhóm của chúng, vốn được các nhà văn phạm truyền thống liệt kê như vậy. Các động từ hợp quy tắc, thematic, có thân hiện tại được hình thành như sau Nhóm 1 Thêm tiếp vĩ âm a vào thân với âm tiết chính đã được chuyển sang cấp guṇa. Ví dụ √ruh "lớn lên, trưởng thành", roh-a. Nhóm 4 Thêm tiếp vĩ tự ya vào gốc, và gốc giữ nguyên dạng. Ví dụ √tuṣ, "vui sướng", tuṣ-ya. Nhóm 6 gắn tiếp vĩ âm a vào gốc và khác trường hợp nhóm 1, gốc của nhóm 6 vẫn được giữ nguyên. Ví dụ √viś "bước vào", viś-a. Nhóm 10 Nhóm này được các nhà văn phạm truyền thống quy về một quá trình có bản chất diễn sinh và như thế, không là một nhóm thật sự. Các động từ bất quy tắc, athematic, có thân hiện tại được hình thành như sau Nhóm 2 Không có biến đổi. Ví dụ √ad "ăn", ad. Nhóm 3 Trùng tự hoá reduplication đầu gốc động từ. Ví dụ √hu "cúng tế", juhu. Nhóm 5 Thêm tiếp vĩ tự nu no ở phân độ guṇa. Ví dụ √nu "ép", sunu. Nhóm 7 Thêm sáp nhập âm infix na hoặc chữ n trước phụ âm cuối của gốc động từ. Ví dụ √rudh "cản trở", rundh hoặc ruṇadh Nhóm 8 Thêm tiếp vĩ tự u o ở phân độ guṇa. Ví dụ √tan "trải tra", tan-u Nhóm 9 Thêm tiếp vĩ tự nā cấp số 0 là nī hoặc n. Ví dụ √krī "mua", krī-ṇā hoặc krī-ṇī. Hệ thống động từ hoàn thành quá khứ Hệ thống này chỉ bao gồm một thời thái duy nhất, là hoàn thành quá khứ perfect tense. Thân động từ của hoàn thành quá khứ được lập bằng cách trùng tự hoá như các động từ nhóm 3 của hệ thống hiện tại. Hệ thống này cũng bao hàm hai dạng thân mạnh và yếu của động từ. Thân mạnh được dùng với ba ngôi xưng số ít, chủ động. Thân yếu được dùng với những ngôi xưng còn lại. Hệ thống động từ đệ tam quá khứ Hệ thống này bao gồm đệ tam quá khứ thật sự với ý nghĩa chỉ quá khứ, ví dụ abhūḥ "Anh đã là" và một vài dạng thật xưa của chỉ lệnh 指令, injunctive, thường được dùng với tiểu từ mā chỉ sự cấm chỉ, ví dụ mā bhūḥ "chớ có là...!". Sự khác biệt đáng kể nhất ở đây là sự có hoặc vắng mặt của âm gia tăng a- augment làm tiếp đầu âm. Cách lập thân đệ tam quá khứ khá phức tạp và chỉ cần biết ở đây là có tổng cộng 7 dạng đệ tam quá khứ. Hệ thống động từ vị lai Trong hệ thống này, thân động từ được lập bằng cách gắn tiếp vĩ tự sya hoặc iṣya vào gốc động từ ở phân độ guṇa. Động từ Cách chia Mỗi động từ đều có một thể ngữ pháp grammatical voice, hoặc là thể chủ động active, bị động passive hoặc trung gian medium. Cũng có một thể khách quan có thể được xem là thể bị động của những động từ bất cập vật intransitive verbs. Động từ tiếng Phạn có ba hình thái đáng lưu ý là chỉ thị indicative, kì nguyện optative và mệnh lệnh imperative. Cổ Phạn văn cũng có dạng subjunctive, chỉ sự lo toan hư cấu nhưng chúng đã bị loại gần hết từ khi Hoa văn Phạn ngữ thịnh hành. Hậu tố động từ căn bản Các hậu tố của động từ tiếng Phạn hàm chứa ngôi xưng, số và cách chia theo vị tự ngôn/vị tha ngôn. Các dạng hậu tố khác nhau được dùng tuỳ theo thân động từ thuộc thời thái và hình thức nào chúng được gắn vào. Thân động từ và chính ngay những hậu tố này có thể biến đổi vì quy luật hợp biến. Parasmaipada vị tha ngôn Ātmanepada vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Đệ nhất Ngôi thứ nhất mi vaḥ maḥ e vahe mahe Ngôi thứ hai si thaḥ tha se āthe dhve Ngôi thứ ba ti taḥ anti, ati te āte ante, ate Đệ nhị Ngôi thứ nhất am va ma i, a vahi mahi Ngôi thứ hai ḥ tam ta thāḥ āthām dhvam Ngôi thứ ba t tām an, uḥ ta ātām anta, ata, ran Quá khứ hoàn thành Ngôi thứ nhất a va ma e vahe mahe Ngôi thứ hai tha athuḥ a se āthe dhve Ngôi thứ ba a atuḥ uḥ e āte re Mệnh lệnh Ngôi thứ nhất āni āva āma ai āvahai āmahai Ngôi thứ hai dhi, hi, — tam ta sva āthām dhvam Ngôi thứ ba tu tām antu, atu tām ātām antām, atām Hậu tố đệ nhất được dùng cho hiện tại chỉ thị present indicative và tương lai. Hậu tố đệ nhị được dùng với quá khứ chưa hoàn thành, điều kiện, quá khứ bất định và kì nguyện imperfect, conditional, aorist, optative. Hậu tố của quá khứ hoàn thành và mệnh lệnh được dùng với quá khứ hoàn thành và mệnh lệnh cách. Cách chia động từ thời hiện tại Chia động từ thời hiện tại xử lý tất vả những dạng của động từ bằng cách dùng thời hiện tại. Nó bao gồm thời hiện tại của tất cả hình thức cũng như đệ nhất quá khứ chỉ thị imperfect indicative. Sự tương phản của thân mạnh/yếu được phản ánh khác nhau tuỳ vào nhóm động từ Cách chia các động từ bất quy tắc Hệ thống hiện tại phân biệt giữa thân mạnh và yếu của động từ. Thân mạnh xuất hiện ở 13 dạng Ngôi thứ 1, 2 và 3 số ít ở thì hiện tại và parasmaipada không hoàn thành. Ngôi thứ nhất số ít, kép, số nhiều ở thì parasmaipada và ātmanepada mệnh lệnh Ngôi thứ ba số ít ở thì parasmaipada mệnh lệnh Ở tất cả những dạng khác thì thân yếu xuất hiện. Nhóm Thân Cách lập thân Ví dụ Ngôi thứ 3 số ít, hiện tại paras./ātm. 2 Thân mạnh √ ở guṇa + suffix dviṣ द्विष् "ghét" dveṣṭi द्वेष्टि ― Thân yếu √ + suffix ― dviṣṭe द्विष्टे 3 Thân mạnh redup. √ ở guṇa + suffix bhṛ भृ "mang, vác" bibharti बिभर्ति ― Thân yếu redup. √ + suffix ― bibhṛte बिभृते 5 Thân mạnh √ + -no- + suffix āp आप् "đắc, đạt" āpnoti आप्नोति ― Thân yếu √ + -nu- + suffix ― āpnute आप्नुते 7 Thân mạnh √ + infix -na- + suffix bhid भिद् "chẻ" bhinatti भिनत्ति ― Thân yếu √ + infix -n- + suffix ― bhintte भिन्त्ते 8 Thân mạnh √ + -o- + suffix tan तन् "kéo ra" tanoti तनोति ― Thân yếu √ + -u- + suffix ― tanute तनुते 9 Thân mạnh √ + -nā- + suffix kṛī क्री "mua" krīṇāti क्रीणाति ― Thân yếu √ + -nī- + suffix ― krīṇīte क्रीणीते Sau đây là bảng chia động từ dviṣ द्विष् "ghét" thuộc nhóm 2 Chỉ thị Vị tha ngôn Vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Hiện tại Ngôi thứ 1 dveṣmi dviṣvaḥ dviṣmaḥ dviṣe dviṣvahe dviṣmahe Ngôi thứ 2 dvekṣi dviṣṭhaḥ dviṣṭha dvikṣe dviṣāthe dviḍḍhve Ngôi thứ 3 dveṣṭi dviṣṭaḥ dviṣánti dviṣṭe dviṣāte dviṣate Vị hoàn thành quá khứ Ngôi thứ 1 adveṣam adviṣva adviṣma adviṣi adviṣvahi adviṣmahi Ngôi thứ 2 adveṭ adviṣṭam advisṭa adviṣṭhāḥ adviṣāthām adviḍḍhvam Ngôi thứ 3 adveṭ adviṣṭām adviṣan adviṣṭa adviṣātām adviṣata Kì nguyện hay mong mỏi optative dùng đệ nhị tiếp vĩ âm. yā được gắn vào thân ở thể chủ động, và ī ở thể thụ động. Mong mỏi Vị tha ngôn Vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Ngôi thứ 1 dviṣyām dviṣyāva dviṣyāma dviṣīya dviṣīvahi dviṣīmahi Ngôi thứ 2 dviṣyāḥ dviṣyātam dviṣyāta dviṣīthāḥ dviṣīyāthām dviṣīdhvam Ngôi thứ 3 dviṣyāt dviṣyātām dviṣyuḥ dviṣīta dviṣīyātām dviṣīran Hình thức mệnh lệnh dùng tiếp vĩ âm riêng của mệnh lệnh. Mệnh lệnh Vị tha ngôn Vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Ngôi thứ 1 dveṣāṇi dveṣāva dveṣāma dveṣai dveṣāvahai dveṣāmahai Ngôi thứ 2 dviḍḍhi dviṣṭam dviṣṭa dvikṣva dviṣāthām dviḍḍhvám Ngôi thứ 3 dveṣṭu dviṣṭām dviṣantu dviṣṭām dviṣātām dviṣatām Hệ thống danh từ Người ta phân biệt hai loại thân danh từ substantive và adjective tuỳ theo tự vĩ của chúng, và gọi chúng thân nguyên âm vowel stem hoặc thân phụ âm consonantal stem. Mỗi thân danh từ đều có, như trường hợp tiếng Đức, một trong ba giới tính Nam tính masculine Nữ tính feminine Trung tính neuter Ngoài trường hợp các danh từ chỉ người ra thì giới tính của một danh từ phần lớn đều là tuỳ tiện. Chủng loại giới tính của mỗi thân danh từ đều có sẵn và người ta cũng không ghi chú dụ như các danh từ với đuôi –i và –u đều được tìm thấy ở ba giới tính. Tuy nhiên, ta có thể nhận ra giới tính ở một vài danh từ, ví dụ như trường hợp danh từ có đuôi –ā và –ī. Chúng đều là nữ tính. Về mặt biến đổi flexion, các danh từ khác nhau ở số numerus và sự kiện casus. Về mặt số thì có ba số như trường hợp các động từ hữu hạn định. Về mặt sự kiện casus, Phạn ngữ không những có các sự kiện như trong tiếng Đức là Nominative, Accusative, Dative và Genitive hoặc như tiếng Latinh với thêm hai sự kiện Ablative và Vocative, mà còn có thêm hai phần nữa là Instrumental và Locative. Như vậy, Phạn ngữ phân biệt 8 sự kiện theo thứ tự sau Nominative Chủ cách. Accusative Trực bổ cách, Trực tiếp thụ cách. Instrumental Dụng cụ cách Dative Gián bổ cách, Dữ cách, Vị cách. Ablative Nguyên uỷ, Đoạt cách, Li cách Genitive Thuộc cách, Sở hữu cách. Locative Vị trí cách Vocative Hô cách. Từ 3 số và 8 sự kiện ta có tất cả ba x 8 = 24 dạng biến hoá ở đuôi của một chữ. Số lượng của tự vĩ biến hoá tuỳ thuộc vào âm cuối của thân danh từ và chủng loại của nó. Hai đặc tính này xác định một hạng danh từ. Các thân danh từ với đuôi phụ âm là –i hoặc –u đều có mặt ở ba giới tính và vì vậy, chúng hình thành ba hạng danh từ nam, nữ và trung tính với mẫu âm cuối là –i. Ví dụ Nam tính kavi "thi sĩ" Nữ tính mati "trí" Trung tính vāri "nước" Mỗi hạng danh từ trên đều có tự vĩ biến hoá riêng. Trên cơ sở này mà người ta phân biệt trên 20 hạng danh từ và tự vĩ biến hoá. Tuy nhiên, các hạng này không khác nhau hết ở 24 cách. Một vài loại tự vĩ biến hoá chỉ khác nhau ở một hoặc hai sự kiện. Người ta phân biệt như sau Thân mẫu âm vowel stem Nam tính –a Trung tính –a Nữ tính –ā Nam tính –i Nữ tính –i Trung tính –i Nam tính –u Nữ tính –u Trung tính –u Nữ tính –ī Nữ tính –ū Nữ tính –ī, đơn âm tiết monosyllable Nữ tính –ū, đơn âm tiết monosyllable Nam tính –ṛ danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun Nữ tính –ṛ danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun Trung tính –ṛ danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun Nam tính –ṛ danh từ chỉ người thân, noun of relations Nữ tính –ṛ danh từ chỉ người thân, noun of relations Nam tính –phức âm Nữ tính –phức âm Thân phụ âm consonantal stem Nam tính –phụ âm ngoài –s,n Nữ tính –phụ âm ngoài –s,n Trung tính –phụ âm ngoài –s,n Nam/Nữ tính –as, –is, –us Trung tính –as, –is, –us Nam/Nữ tính –an Trung tính –an Nam tính –in Trung tính –in Ngoài những dạng trên ta còn tìm thấy một vài tự vĩ biến hoá cho một vài hình dung từ và phân từ nhất định. Điều cần biết nữa là các đại danh từ pronoun, đại danh từ chỉ thị demonstrative pronoun và số từ — cả ba đều được xếp vào danh từ — đều có tự vĩ biến hoá riêng. Thân có âm kết thúc -a Nhóm thân có âm kết thúc -a là nhóm lớn nhất. Các danh từ loại này chỉ có thể là nam hoặc trung tính. kāma "tình yêu", nam tính āsya "mồm", trung tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative kāmaḥ kāmau kāmāḥ āsyam āsye āsyāni Accusative kāmam kāmau kāmān āsyam āsye āsyāni Instrumental kāmena kāmābhyām kāmaiḥ āsyena āsyābhyām āsyaiḥ Dative kāmāya kāmābhyām kāmebhyaḥ āsyāya āsyābhyām āsyebhyaḥ Ablative kāmāt kāmābhyām kāmebhyaḥ āsyāt āsyābhyām āsyebhyaḥ Genitive kāmasya kāmayoḥ kāmānām āsyasya āsyayoḥ āsyānām Locative kāme kāmayoḥ kāmeṣu āsye āsyayoḥ āsyeṣu Vocative kāma kāmau kāmāḥ āsya āsye āsyāni Thân có âm kết thúc -i và -u Thân -i gati "đường đi", nữ tính vāri "nước", trung tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative gatiḥ gatī gatayaḥ vāri vāriṇī vārīṇi Accusative gatim gatī gatīḥ vāri vāriṇī vārīṇi Instrumental gatyā gatibhyām gatibhiḥ vāriṇā vāribhyām vāribhiḥ Dative gataye, gatyai gatibhyām gatibhyaḥ vāriṇe vāribhyām vāribhyaḥ Ablative gateḥ, gatyāḥ gatibhyām gatibhyaḥ vāriṇaḥ vāribhyām vāribhyaḥ Genitive gateḥ, gatyāḥ gatyoḥ gatīnām vāriṇaḥ vāriṇoḥ vāriṇām Locative gatau, gatyām gatyoḥ gatiṣu vāriṇi vāriṇoḥ vāriṣu Vocative gate gatī gatayaḥ vāri, vāre vāriṇī vārīṇi Thân -u śatru "kẻ thù", nam tính madhu "mật ong", trung tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative śatruḥ śatrū śatravaḥ madhu madhunī madhūni Accusative śatrum śatrū śatrūn madhu madhunī madhūni Instrumental śatruṇā śatrubhyām śatrubhiḥ madhunā madhubhyām madhubhiḥ Dative śatrave śatrubhyām śatrubhyaḥ madhune madhubhyām madhubhyaḥ Ablative śatroḥ śatrubhyām śatrubhyaḥ madhunaḥ madhubhyām madhubhyaḥ Genitive śatroḥ śatrvoḥ śatrūṇām madhunaḥ madhunoḥ madhūnām Locative śatrau śatrvoḥ śatruṣu madhuni madhunoḥ madhuṣu Vocative śatro śatrū śatravaḥ madhu madhunī madhūni Thân có âm kết thúc là nguyên âm dài, đơn âm tiết Thân -TemplateUnicode, TemplateUnicode "thần đồng" Thân -TemplateUnicode, TemplateUnicode "sự suy nghĩ" Thân TemplateUnicode, TemplateUnicode "đất" Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode dhiyaḥ TemplateUnicode TemplateUnicode bhuvaḥ Accusative TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode, jaḥ dhiyam TemplateUnicode dhiyaḥ bhuvam TemplateUnicode bhuvaḥ Instrumental TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode dhiyā TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode Dative je TemplateUnicode TemplateUnicode dhiye, TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode bhuve, TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode Ablative jaḥ TemplateUnicode TemplateUnicode dhiyaḥ, TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode bhuvaḥ, TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode Genitive jaḥ joḥ TemplateUnicode dhiyaḥ, TemplateUnicode dhiyoḥ TemplateUnicode bhuvaḥ, TemplateUnicode bhuvoḥ TemplateUnicode Locative ji joḥ TemplateUnicode dhiyi, TemplateUnicode dhiyoḥ TemplateUnicode bhuvi, TemplateUnicode bhuvoḥ TemplateUnicode Vocative jāḥ TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode TemplateUnicode dhiyaḥ TemplateUnicode TemplateUnicode bhuvaḥ Thân có âm kết thúc -ṛ Thân -ṛ phần lớn chỉ người làm, thực hiện một hành động, ví như dātṛ "người đưa", mặc dù thân này cũng bao hàm một số danh từ chỉ quyến thuộc, ví dụ như pitṛ "cha", mātṛ "mẹ", và svasṛ "chị/em gái". Số ít Số hai Số nhiều Nominative pitā pitarau pitaraḥ Accusative pitaram pitarau pitṝn Instrumental pitrā pitṛbhyām pitṛbhiḥ Dative pitre pitṛbhyām pitṛbhyaḥ Ablative pituḥ pitṛbhyām pitṛbhyaḥ Genitive pituḥ pitroḥ pitṝṇām Locative pitari pitroḥ pitṛṣu Vocative pitaḥ pitarau pitaraḥ Nhân xưng đại danh từ Ngôi xưng thứ nhất và thứ hai được biến hoá song song và có nhiều điểm tương đồng. Lưu ý Ở ba sự kiện Accusative, Dative và Genitive thì hai nhân xưng đại danh từ này có dị dạng. Những dạng nằm trong ngoặc thuộc loại phụ đới ngữ enclitic nên chúng không bao giờ đứng ở đầu câu hoặc sau những tiểu từ bất biến như च ca, वा vā và एव eva. Ngôi thứ nhất Ngôi thứ hai Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative aham āvām vayam tvam yuvām yūyam Accusative mām mā āvām nau asmān naḥ tvām tvā yuvām vām yuṣmān vaḥ Instrumental mayā āvābhyām asmābhiḥ tvayā yuvābhyām yuṣmābhiḥ Dative mahyam me āvābhyām nau asmabhyam naḥ tubhyam te yuvābhyām vām yuṣmabhyam vaḥ Ablative mat āvābhyām asmat tvat yuvābhyām yuṣmat Genitive mama me āvayoḥ nau asmākam naḥ tava te yuvayoḥ vām yuṣmākam vaḥ Locative mayi āvayoḥ asmāsu tvayi yuvayoḥ yuṣmāsu Đại danh từ chỉ thị tad demonstrative pronoun được biến hoá bên dưới cũng giữ chức năng nhân xưng đại danh từ ngôi thứ ba. Nam tính Trung tính Nữ tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative saḥ tau te tat te tāni sā te tāḥ Accusative tam tau tān tat te tāni tām te tāḥ Instrumental tena tābhyām taiḥ tena tābhyām taiḥ tayā tābhyām tābhiḥ Dative tasmai tābhyām tebhyaḥ tasmai tābhyām tebhyaḥ tasyai tābhyām tābhyaḥ Ablative tasmāt tābhyām tebhyam tasmāt tābhyām tebhyam tasyāḥ tābhyām tābhyaḥ Genitive tasya tayoḥ teṣām tasya tayoḥ teṣām tasyāḥ tayoḥ tāsām Locative tasmin tayoḥ teṣu tasmin tayoḥ teṣu tasyām tayoḥ tāsu Hợp thành từ TemplateChính compounds Một trong những điểm đặc thù nổi bật nhất của tiếng Phạn là số lượng lớn và cấu trúc phức tạp của từ hợp thành. Tương tự trong tiếng Đức, hợp thành từ cũng được ghi chung và xuất hiện như một đơn vị từ thái. Tuy nhiên, một hợp thành từ trong tiếng Phạn chỉ là một từ về mặt hình thái. Về mặt văn phạm thì hợp từ này không phải là một từ, mà là một cấu trúc ngữ nghĩa được hình thành từ nhiều chữ. Trong Phạn văn, mỗi hình dung từ được phối hợp với một danh từ trong một phiến ngữ phrase đều có thể được phối hợp với một thật danh từ substantive. Ví dụ như śānta शान्त "tĩnh lặng" có thể xuất hiện trong một đoạn câu śāntaṃ nagaram शान्तं नगरम् "thành phố tĩnh lặng" hoặc trong một hợp thành từ śāntanagaram शान्तनगरम् "thành phố tĩnh lặng" Hợp thành từ có thể được tạo một cách rất tự do, cụ thể là làm sao tạo cho tương ưng với những quy tắc, những hợp thành từ đã được tìm thấy trong những tác phẩm văn hoá. Như vậy thì trong Phạn văn, hợp thành từ có thể được tạo tương tự như những phiến ngữ hoặc những câu một cách ad hoc. Và cũng như trường hợp lập đoạn câu và những câu, ta không thấy sự hạn chế nào về mặt tạo hợp thành ngữ trong Phạn văn cả. Chỉ một vài quy tắc nhỏ được các nhà văn phạm truyền thống liệt kê ra. Quy tắc tạo hợp thành từ Cách tạo hợp thành từ luôn luôn theo một quy tắc giống nhau Những từ như thật danh từ substantive, hình dung từ adjective, quá khứ phân từ thụ động participle preterite passive cũng như những từ không biến đổi như phó từ adverb được nối lại với nhau và thành phần đi trước — có nghĩa là tất cả những thành phần ngoài thành phần cuối — xuất hiện dưới dạng thân nguyên thuỷ, tức là không được biến hoá. Trong lúc nối những thành phần của hợp từ lại thì luật ngoại hợp biến được ứng dụng một vài ngoại hạng tham khảo thêm Stenzler §307 Thành phần thứ hai hoặc thành phần cuối đi sau của hợp từ được biến hoá tuỳ ngữ cảnh. Người ta phân biệt năm loại hợp thành từ tương ưng với các nhóm ngữ cán thân/gốc của từ xuất hiện ở phần trước hoặc sau của một hợp từ, tương ưng với mối quan hệ ngữ pháp/nghĩa giữa phần trước và sau của hợp từ. Những thuật ngữ sau đây được dùng như cách trình bày của các nhà Phạn học truyền thống. Cách gọi trong ngoặc lấy từ văn phạm của những nhóm ngôn ngữ châu Âu. Tatpuruṣa Hợp thành từ xác định determinative compound Karmadhāraya Hợp thành từ miêu tả descriptive compound Bahuvrīhi Hợp thành từ mang tính chất định ngữ attributive compound Dvandva Hợp thành từ làm đồng đẳng coordinative compound Avyayībhāva Hợp thành từ mang tính chất phó từ adverbial compound Ngoài ra người ta cũng liệt kê một loại thứ năm nữa là Amredita, chỉ sự lặp đi lặp lại. Ví dụ dive-dive "ngày qua ngày", "mỗi ngày". Cú pháp Vì các tiếp vĩ tự chỉ rõ các sự kiện hệ thuộc và các ngôi xưng, số nên thứ tự của các loại từ trong câu tương đối tự do, với khuynh hướng Chủ từ-Đối tượng-Động từ. Số từ Số 1 đến 10 là 1 eka एक 2 dvi द्वि 3 tri त्रि 4 catur चतुर् 5 pañcan पञ्चन् 6 ṣaṣ षष् 7 saptan सप्तन् 8 aṣṭan अष्टन् 9 navan नवन् 10 daśan दशन् Các số 1 đến 4 được biến hoá theo các sự kiện. Eka được biến hoá như một nhân xưng đại danh từ chỉ khác ở giống trung, số ít, cách chủ ngữ và bổ trực là kết thúc bằng –म् thay vì –त्. Tri và Catur được biến hoá không có quy tắc Số 3 Số 4 Nam tính Trung tính Nữ tính Nam tính Trung tính Nữ tính Cách chủ ngữ trayaḥ trīṇi tisraḥ catvāraḥ catvāri catasraḥ Cách bổ trực trīn trīṇi tisraḥ caturaḥ catvāri catasraḥ Cách công cụ tribhiḥ tisṛbhiḥ caturbhiḥ catasṛbhiḥ Cách nhận tribhyaḥ tisṛbhyaḥ caturbhyaḥ catasṛbhyaḥ Cách li tribhyaḥ tisṛbhyaḥ caturbhyaḥ catasṛbhyaḥ Cách sở hữu triyāṇām tisṛṇām caturṇām catasṛṇām Cách vị trí triṣu tisṛṣu caturṣu catasṛṣu Ảnh hưởng Ấn Độ ngày nay Ảnh hưởng lớn nhất của tiếng Phạn có lẽ là những gì nó đã mang đến những ngôn ngữ lấy cơ sở văn phạm và từ vị từ nó ra. Đặc biệt trong giới tri thức Ấn Độ, tiếng Phạn được ca ngợi là một kho báu kinh điển và những bài tụng niệm của Ấn Độ giáo. Như tiếng Latinh đã ảnh hưởng đến những ngôn ngữ châu Âu, tiếng Phạn đã ảnh hưởng lớn đến hầu hết những ngôn ngữ của Ấn Độ. Trong khi những bài tụng niệm thường được ghi dưới dạng ngôn ngữ bình dân thì những chân ngôn tiếng Phạn được trì tụng bởi hàng triệu người theo Ấn giáo và trong hầu hết những đền thờ, các nghi thức tế lễ đều được thực hiện với tiếng Phạn, thường dưới dạng Phệ-đà phạn ngữ. Những dạng ngôn ngữ cao cấp của phương ngôn vernacular Ấn Độ như tiếng Bengali, tiếng Gujarati, tiếng Marathi, tiếng Telugu và tiếng Hindi - thường được gọi là "thanh tịnh" sa. śuddha, "cao quý" - đều có độ Phạn hoá rất cao. Trong các ngôn ngữ hiện đại, trong khi tiếng Hindi dạng nói có khuynh hướng chịu ảnh hưởng nặng của tiếng Ả Rập và tiếng Ba Tư thì Bengali và Marathi vẫn lưu giữ một cơ sở từ vị to lớn. Bài quốc ca Jana Gana Mana được viết dưới dạng Bengali cao cấp, được Phạn hoá nặng nên có vẻ cổ xưa. Bài quốc ca tiền thân của Jana Gana Mana là Vande Mataram, một trước tác của Bankim Chandra Chattopadhyay được trích từ quyển Ānandmath của ông ta, là một bài thơ tiếng Phạn thuần tuý. Tiếng Malayalam, một ngôn ngữ được dùng tại bang Kerala, cũng phối hợp một số lượng từ vị tiếng Phạn đáng kể với cấu trúc ngữ pháp tiếng Tamil. Tiếng Kannada, một ngôn ngữ Nam Ấn khác cũng hàm dung từ vị tiếng Phạn. Được xem là phương tiện truyền dạy những khái niệm tâm linh, tiếng Phạn vẫn còn được ca ngợi và phổ biến tại Ấn Độ. Tiếng Phạn được nói như tiếng mẹ đẻ tại Mattur gần Shimoga, một thôn làng nằm ở trung tâm Karnataka. Dân ở đây, bất cứ giai cấp nào, đều học và đàm thoại bằng tiếng Phạn từ nhỏ. Ngay những người bản xứ theo Hồi giáo cũng nói tiếng Phạn. Nhìn theo khía cạnh lịch sử thì làng Mattur được vua Kṛṣṇadevarāja của vương quốc Vijayanagara phó uỷ cho các học giả Phệ-đà và thân quyến của họ. Từ ngữ tiếng Phạn được tìm thấy ở nhiều ngôn ngữ ngoài Ấn Độ. Ví dụ như tiếng Thái bao gồm nhiều từ mượn từ tiếng Phạn, như tên Rāvaṇa - hoàng đế Tích Lan - được người Thái gọi là Thoskonth, một từ rõ ràng xuất phát từ biệt danh tiếng Phạn khác là Daśakaṇṭha, "Người có mười cổ". Ngay người Philippines cũng dùng chữ guro, vốn là từ Guru của tiếng Phạn đùng để chỉ bậc đạo sư. Một số từ đã đi vào từ vị của các ngôn ngữ châu Âu như Yoga, Dharma, Nirvana sa. nirvāṇa, Ashram sa. āśrama, Mandala sa. maṇḍala, Aryan sa. ārya, Guru, Bhagavan sa. bhagavat, Avatar sa. avatāra Tương quan giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ hệ Hán-Tạng Qua việc phổ biến Phật giáo bằng các bản dịch, tiếng Phạn và những phương ngôn hệ thuộc đã ảnh hưởng các nước lân cận với hệ ngôn ngữ Hán-Tạng. Phật giáo được truyền sang Trung Quốc qua các vị cao tăng theo Phật giáo Đại thừa, qua việc phiên dịch những kinh luận được viết theo Phật giáo tạp chủng phạn ngữ Buddhist Hybrid Sanskrit cũng như Hoa văn Phạn ngữ, và rất nhiều thuật ngữ được dịch âm thẳng sang Hán văn, bổ sung rất nhiều từ vị cho tiếng Hán cổ. Ví dụ như từ Phạn bodhisattva được phiên âm là Bồ-đề-tát-đoá hoặc viết tắt là Bồ Tát. Trong khi các chữ đơn Đề 提 "Nâng lên, nâng đỡ, kéo cho tiến lên" và Đóa "đổ đất thành đống" mang nghĩa riêng, thì khi được dùng để phiên âm tiếng Phạn chúng bị mất nghĩa, khái niệm của từ nguyên bodhisattva phải được trình bày và hiểu riêng. Sau đây là một vài ví dụ tiêu biểu cho các thuật ngữ Hán-Việt được phiên âm từ tiếng Phạn Bát-nhã và Bát-nhã-ba-la-mật-đa cho từ prajñā và prajñāpāramitā. Bát-đa-la, hoặc gọi tắt là "bát", cho từ pātra với nghĩa là cái bát đi khất thực của các vị tăng, và cũng là cái bát ăn cơm của ta. Mặc dù Phật giáo tạp chủng phạn ngữ không phải là Hoa văn Phạn ngữ nếu nói chính xác nhưng từ vị của nó vẫn tương tự từ vị tiếng Phạn vì có cùng gốc, và vì người viết kinh muốn ghi theo lối tiếng Phạn Hoa văn để phổ biến. Ví dụ cho các bộ luận được viết dạng tiếng Phạn Hoa văn là các tác phẩm của Trung quán tông. Cái "chết" của tiếng Phạn Những lời phê bình việc dạy và học tiếng Phạn thường liên quan đến sự phổ biến và việc nó không được nói nữa. Tuy nhiên, tiếng Phạn là một ngôn ngữ có một không hai, vượt thời gian. Một hệ thống kinh điển rất đồ sộ được biên tập vào lúc nó không còn được nói bởi thường dân. Sự thật tiếng Phạn là một ngôn ngữ bất biến, được chỉ đạo bằng những quy luật văn phạm khắt khe của Ba-ni-ni đã khiến người ta chọn lựa để ghi văn bản với dụng ý phổ biến và lưu thế lâu dài. Việc trước tác bằng tiếng Phạn chưa từng bị gián đoạn, đã được tiếp tục trong thời kì Hồi giáo nắm quyền và vẫn được tiếp nối ngay trong thời nay. Xem thêm IAST Bát chương ngữ pháp thư Ba-ni-ni Thiên thành tự thể Văn bản tiếng Phạn Trường hoá Cường hoá Ngôn ngữ Ấn Độ Tám cách của tiếng Phạn Danh sách ngôn ngữ Ấn Độ theo số người Tham khảo The Sanskrit Language - T. Burrow - ISBN 81-208-1767-2 Sanskrit Grammar - William D. Whitney - ISBN 81-85557-59-4 Sanskrit Pronunciation - Bruce Cameron - ISBN 1-55700-021-2 Liên kết ngoài TemplateWikipedia ngoại ngữ TemplateThể loại Commons Online Sanskrit Dictionary An Analytical Cross Referenced Sanskrit Grammar By Lennart Warnemyr. Phonology, morphology and syntax, written in a semiformal style with full paradigms. Spiritual Sanskrit-English Dictionary Sanskrit Discussion Forum Sanskrit Documents Documents in ITX format of Upanishads, Stotras etc. and a metasite with links to translations, dictionaries, tutorials, tools and other Sanskrit resources. Free Sanskrit Word Processor Madhyam developed by Balendu Sharma Dadhich Sanskritweb Các bộ chữ Phạn và văn bản. GiirvaaNi - Sanskrit Classical Literature with translation The earliest dated illustrated Sanskrit manuscript in the world A list of Chinese words originated from Sanskrit Monier-Williams Dictionary - Searchable Monier-Williams' Sanskrit-English Dictionary DICT & HTML Downloadable Versions Lexica searchable Monier-Williams included Monier-Williams Dictionary - Searchable Digital Facsimile Edition Freeware CD Monier-Williams Dictionary - Printable Samskrita Bharati Sanskrit Studies, Links and Information pAnini’s Grammar and Computer Science Ethnologue's Sanskrit report American Sanskrit Institute A brief Sanskrit Glossary Lists commonly used words in spiritual writings Tranliterator Transliterates from romanized to Unicode Sanskrit transliterator. Sanskrit Translations A Sanskrit Tutor Sanskrit & Sánscrito Sanskrit language, Yoga, Indian philosophies, blog, names, names of hatha yoga postures, Directory of Free Sanskrit Links, translations and much more English-Spanish. Tự học viết chữ Phạn Siddham Từ điển Phạn Monier-Williams, phiên bản offline chạy trên Windows TemplateNgôn ngữ Ấn Độ Thể loạiNgôn ngữ cổ điển Thể loạiNgôn ngữ cổ điển tại Ấn Độ Phạn Thể loạiNgôn ngữ viết bằng Devanagari Thể loạiNgôn ngữ tại Nepal Thể loạiNgôn ngữ chủ-tân-động Tiếng Phạn zh. Phạm/Phạn ngữ 梵語; sa. saṃskṛtā vāk संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là saṃskṛtam संस्कृतम् là một cổ ngữ của Ấn Độ còn gọi là bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là nam Phạn và là một ngôn ngữ tế lễcủa các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo. Nó có một vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độ và các văn hóa vùng Đông Nam Á tương tự như vị trí của tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp trong châu Âu Trung Cổ; nó cũng là kết cấu trọng điểm của truyền thống Ấn giáo/Phệ-đà, nhưng ở một mức độ cao cấp hơn. Ngày nay nó là một trong nhiều ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ, mặc dù tiếng Hindi hindī हिन्दी và các thứ tiếng địa phương khác ngày càng được dùng phổ biến. Khác với quan niệm phổ biến, tiếng Phạn không phải là một ngôn ngữ chết. Nó vẫn còn được dạy trong các trường học và tại gia khắp nước Ấn, tuy chỉ là ngôn ngữ thứ hai. Một số người Bà-la-môn vẫn xem tiếng Phạn là tiếng mẹ đẻ. Theo một thông tin gần đây, tiếng Phạn được phục hưng như một tiếng địa phương thực dụng tại làng Mattur gần Shimoga, Karnataka. Tiếng Phạn phần lớn được dùng như một ngôn ngữ tế tự trong các nghi lễ của Ấn Độ giáo dưới dạng ca tụng và chân ngôn sa. mantra. Tiền thân của tiếng Phạn cổ là tiếng Phệ-đà zh. 吠陀, en. vedic sanskrit, một ngôn ngữ được xem là một trong những thành viên cổ nhất của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, và văn bản cổ nhất của nó là Lê-câu-phệ-đà zh. 棃俱吠陀, sa. ṛgveda. Bài này nhấn mạnh vào Hoa văn Phạn ngữ như nó được hệ thống hoá bởi Ba-ni-ni zh. 巴尼尼, sa. pāṇini vào khoảng 500 trước CN. Hầu hết những bài văn tiếng Phạn được truyền miệng qua nhiều thế kỉ trước khi được ghi lại tại Ấn Độ trong thời kì trung cổ. Lịch sử Từ nguyên Saṃskṛta là một quá khứ phân từ thụ động được hình thành từ tiếp đầu âm sam, có nghĩa là “gom lại”, “đầy đủ” và gốc động từ √kṛ với nghĩa là “làm”. Như vậy thì saṃskṛta có nghĩa là “được làm đầy đủ”. Theo quan niệm Ấn Độ, cái được làm đầy đủ, trọn vẹn là tốt nên saṃskṛta cũng được hiểu là “toàn hảo”. Các nhà dịch kinh Phật từ Phạn sang Hán dịch saṃskṛta là Phạn Phạm 梵, có nghĩa là thuộc về Phạm thiên, thuộc cõi trời thanh tịnh, thiêng liêng và theo nghĩa này danh từ Phạn ngữ zh. 梵語 được dùng. Một cách gọi khác là Nhã ngữ zh. 雅語. Theo định nghĩa trên thì tiếng Phạn luôn là một ngôn ngữ cao cấp được dùng trong những lĩnh vực tôn giáo và khoa học, đối nghịch với những loại ngôn ngữ bình dân. Bộ văn phạm cổ nhất còn được lưu lại là Sách ngữ pháp tám chương sa. aṣṭādhyāyī của Ba-ni-ni sa. Pāṇini, được biên tập vào khoảng thế kỉ thứ 5 trước CN. Bộ này cơ bản là một bộ ngữ pháp quy định, phán định prescriptive thế nào là tiếng Phạn đúng, thay vì mang tính chất miêu tả descriptive. Tuy nhiên, nó vẫn hàm dung những phần miêu tả, phần lớn miêu tả những dạng từ ngữ Phệ-đà đã không còn phổ biến vào thời của Ba-ni-ni. Mặc dù hầu hết những người học tiếng Phạn cũng đã nghe câu truyện truyền thống là tiếng Phạn đã được sáng tạo và tinh chế qua nhiều thế hệ theo truyền thống là hơn một thiên niên kỉ cho đến lúc được xem là toàn hảo. Khi danh từ saṃskṛta xuất hiện tại Ấn Độ, nó không được hiểu là một ngôn ngữ đặc thù, khác biệt so với những ngôn ngữ khác người Ấn thời đó thường xem ngôn ngữ là phương ngôn, tức là những thứ tiếng địa phương, mà chỉ là một cách ăn nói tao nhã đặc biệt, có một mối tương quan với các ngôn ngữ địa phương như trường hợp tiếng Anh “chuẩn” có mối tương quan với những loại phương ngôn được dùng tại Vương quốc Anhhoặc Hoa Kỳ. Kiến thức tiếng Phạn là một dấu hiệu của địa vị xã hội và học vị, được truyền dạy qua sự phân tích chặt chẽ những nhà văn phạm Phạn ngữ như Ba-ni-ni. Hình thái của ngôn ngữ này xuất phát từ dạng Phệ-đà có trước và các học giả thường phân biệt giữa tiếng Phạn Phệ-đà vedic sanskrit và tiếng Phạn cổ classical sanskrit. Tuy nhiên, hai ngôn ngữ này rất giống nhau về nhiều mặt, chỉ khác nhau phần lớn ở một vài khía cạnh âm vận, từ vị và ngữ pháp. Cũng một số người cho rằng, Ấn Độ thời xưa có nhiều phương ngôn khác nhau và tiếng Phạn cổ là một trong những phương ngôn, Phệ-đà là một cấp bậc cổ hơn của một trong những phương ngôn này. Tiếng Phệ-đà có khuynh hướng chuyển các từ Ấn-Âu l ल् thành r र्, chuyển ḍ ड् và ḍh ढ् thành ḷ ऌ và ḷh ळ giữa các nguyên âm với l uốn lưỡi. Tiếng Phệ-đà là ngôn ngữ của những bộ kinh Phệ-đà, những thánh điển xuất hiện sớm nhất tại Ấn Độ và cũng là cơ sở của Ấn Độ giáo. Bộ kinh Phệ-đà cổ nhất, Lê-câu-phệ-đà, được biên tập trong thiên niên kỉ thứ hai trước CN. Các dạng từ ngữ Phệ-đà được lưu truyền cho đến giữa thiên niên kỉ thứ nhất trước CN. Vào khoảng thời gian này, tiếng Phạn thực hiện một bước chuyển biến từ một ngôn ngữ thứ nhất thành một ngôn ngữ thứ nhì của tôn giáo và học thức, đánh dấu bước khởi đầu của thời kì Hoa văn. Một dạng tiếng Phạn được gọi là tiếng Phạn sử thi epic sanskrit được tìm thấy trong những trường sử thi như Mahābhārata và những sử thi khác. Dạng tiếng Phạn này hàm dung nhiều thành tố prākṛta, là những thành phần vay mượn từ ngôn ngữ “bình dân”, so với Hoa văn Phạn ngữ chuẩn. Cũng có một ngôn ngữ được các học giả gọi là Phật giáo tạp chủng phạn ngữ Buddhist Hybrid Sanskrit; nó thật sự là một dạng prākṛta với những thành phần tiếng Phạn được dùng để tô hoạ thêm. Người ta tìm thấy một mối quan hệ rất gần giữa những dạng tiếng Phạn và những dạng phương ngôn Trung Ấn Middle Indo-Aryan Prākrits, hoặc giữa những ngôn ngữ địa phương phần lớn kinh điển Phật giáo và Jaina giáo được ghi lại dưới dạng này và những ngôn ngữ Ấn-Âu hiện đại. Các dạng ngôn ngữ Prākrit có lẽ xuất phát từ tiếng Phệ-đà và người ta cũng tìm thấy sự ảnh hưởng giữa các dạng tiếng Phạn sau này và các dạng Prākrit khác nhau. Và cũng có sự ảnh hưởng hai chiều giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ Nam Ấn thuộc hệ ngôn ngữ Dravida như tiếng Tamil. Công trình nghiên cứu tiếng Phạn tại châu Âu, được khởi công bởi Heinrich Roth và Johann Ernst Hanxleden, đã dẫn đến sự đề nghị một hệ ngôn ngữ Ấn-Âu của Sir William Jones và vì thế đã giữ một vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngành ngữ học châu Âu. Thật như vậy, ngành Ngữ ngôn học cùng với Âm vận học xuất phát đầu tiên trong giới nghiên cứu văn phạm Ấn Độ, những người đã tìm cách mục lục hoá và lập điều lệ các quy tắc trong tiếng Phạn. Ngữ ngôn học hiện đại chịu ảnh hưởng rất lớn của những nhà văn phạm này và cho đến ngày nay, những thuật ngữ then chốt cho sự phân tích hợp từ đều được lấy từ tiếng Phạn. Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu Tiếng Phạn thuộc nhóm ngôn ngữ Ấn-Aryan của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu và, như vậy, nó có cùng gốc với phần lớn các ngôn ngữ châu Âu hiện đại, và cũng cùng nguồn với những ngôn ngữ châu Âu cổ như tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Mối quan hệ có thể được minh hoạ qua hai từ cha và mẹ sau đây Tiếng Phạn pitṛ पितृ phát âm gần như pi-tri và mātṛ मातृ phát âm gần như ma-tri Tiếng Latinh pater và mater Tiếng Hi Lạp cổ παηρ và μηηρ Điểm đáng chú ý là sự tương đồng trong cấu trúc ngữ pháp, ví như giới tính hay giống, chức năng của các sự kiện hay cách, thời thái và hình thức hay trạng. Tiếng Phạn còn giữ tất cả tám sự kiện hoặc cách của ngôn ngữ Ấn-Âu gốc Cách chủ ngữ hay chủ cách nominative Cách trực bổ accusative, hay Trực tiếp thụ cách Cách dụng cụ instrumental Cách gián bổ dative, hay Dữ cách, Vị cách Cách tách li ablative hay Nguyên uỷ, Đoạt cách Cách sở hữu genitive, hay Thuộc cách Cách vị trí locative, hay Ư cách Cách xưng hô hay Hô cách vocative Thêm vào số một và số nhiều, tiếng Phạn còn có số hai khi chia động từ hoặc biến hoá danh từ. Điểm giống nhau giữa các tiếng Latinh, cổ Hi Lạp và Phạn đã đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngành nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu. Âm vận và cách viết Bảng chữ cái tiếng Phạn bao gồm 13 mẫu âm, 33 phụ âm và 2 âm bổ sung. Cho 46 + 2 âm này thì hệ thống chữ viết Devanāgarī dành cho mỗi chữ một ký tự riêng biệt. Vì có nhiều âm và ký tự hơn bảng chữ cái Latinh nên khi phiên âm chuẩn mực, người ta cần có một loạt dấu đặc biệt—người Âu châu gọi là diacritics, Hán gọi là Khu biệt phát âm phù hiệu zh. 區別發音符號—hoặc phối hợp các ký tự khác nhau để ghi cách phát âm. Qua việc bổ sung năm phát âm phù hiệu Dấu sắc cho âm hàm trên cọ xát răng palatal sibilant như trường hợp ś Dấu ngã cho giọng mũi lưỡi đụng hàm trên palatal nasal, trong trường hợp ñ và phối hợp một phụ âm +h cho những âm có hơi đưa ra aspiration, như trường hợp kh, người ta có thể trình bày tất cả những âm tiếng Phạn bằng các ký tự Latinh. Nguyên âm đơn Devanāgarī IAST HK Cách phát âm Đứng riêng hoặc đầu chữ Dấu nguyên âm trong chữ Tiếng Việt—Anh IPA अ a a phát âm a ngắn, nghiêng chút về âm ơ—gut ʌ आ ा ā A phát âm dài gấp đôi a—father aː इ ि i i phát âm i ngắn—pin i ई ी ī I phát âm dài gấp đôi i—tweak iː उ ु u u phát âm u ngắn—push u ऊ ू ū U phát âm dài gấp đôi u—moo uː ऋ ृ ṛ R phát âm như ri, nhưng chỉ đọc phớt chữ i—một số phương ngữ Mỹ đọc như bird r̩ ॠ ॄ ṝ RR như ṛ, nhưng dài gấp đôi—y trang, nhưng dài hơn và bị rung r̩ː ऌ ॢ ḷ L đọc như li, nhưng chỉ đọc phớt chữ i—pickle l̩ Nguyên âm mang tính chất phụ âm ṛ, ṝ, and ḷ được xem là nguyên âm, nhưng cũng mang tính chất phụ âm do đó thường được biết như consonantal vowel. Một vài nhà văn phạm truyền thống nhắc đến chữ ḹ ॡ, dạng dài của ḷ, nhưng chữ này không được tìm thấy trong các văn bản thật sự, chỉ có ở một vài tác phẩm văn phạm đặc thù, có lẽ được đưa ra chỉ để tạo tính tương đồng với những nguyên âm khác. Phức hợp âm Tất cả các phức hợp âm diphthongs đều được phát âm dài. Devanāgarī Chuyển tự Cách phát âmp Đứng riêng hoặc đầu chữ Dấu nguyên âm trong chữ Tiếng Việt—Anh IPA ए े e phát âm như ê—hay eː ऐ ै ai phát âm như ai—bite aːj ओ ो o phát âm như ô—snow oː औ ौ au phát âm như au—pow aːw Nguyên âm có thể được tăng thêm âm mũi tị âm hoá, nasalized. Phụ âm Âm môi labial Âm môi răng labiodental Âm răng dental Âm uốn lưỡi retroflex Âm vòm palatal Âm vòm miệng mềm velar Âm cổ họng pharyngeal Tử âm stop Không có tống khí unaspirated p प b ब t त d द ṭ T ट ḍ D ड c ch च j ज k क g ग Có tống khí aspirated ph फ bh भ th थ dh ध ṭh Th ठ ḍh Dh ढ ch chh छ jh झ kh ख gh घ Âm mũi nasal m म n न ṇ N ण ñ J ञ ṅ G ङ Bán nguyên âm semivowel v व y य Âm lưu chuyển liquid l ल r र Âm ma sát fricative s स ṣ S ष ś z श ḥ H ः h ह Tuỳ âm ं ṃ biến đổi theo nguyên âm đi trước, tăng thành phần giọng mũi của nguyên âm. Ví dụ saṃsāra đọc như sangsāra, saṃhitā đọc như sanghitā. Tuỳ âm tăng phần âm mũi của nguyên âm trước những phụ âm y, r, l, v, ś, ṣ, s. Nhấn giọng pitch Trong tiếng Phạn, đặc biệt là tiếng Phạn Phệ-đà, các âm tiết được nhấn mạnh bằng một dấu thanh âm điệu, có nghĩa là âm tiết được nhấn mạnh có một thanh điệu khác. Các nhà văn phạm Ấn Độ truyền thống định nghĩa ba thanh udātta “cao thanh”, anudātta “không cao thanh” và svarita “có âm điệu”. Thông thường, khi ký âm người ta dùng dấu acute ॔ để trình bày âm cao udātta, và dùng dấu grave ॓ cho an-udātta. Thanh điệu svarita chỉ xuất hiện như kết quả của sự phối hợp giữa các nguyên âm theo quy tắc tạo âm điệu nghe êm tai euphony và vì thế, nó ít xuất hiện. Hợp biến sandhi Nếu hai chữ trực tiếp đi theo nhau thì ta thường thấy sự biến đổi trong âm kết thúc của chữ đầu và khởi âm của chữ thứ hai vì nguyên do giản hoá và êm tai euphony abcd efgh → abcx efgh, hoặc abcd yfgh, hoặc abcx yfgh Trong văn cảnh nhất định, hai chữ đã biến đổi thường được viết chung và như vậy, việc phân biệt và nhận ra một chuỗi chữ đã biến đổi, thậm chí chưa quen không phải là dễ. Ví dụ như nhận chữ abcxyfgxzjkl là chuỗi chữ abcd efgh ijkl Sự biến đổi âm cũng có thể xảy ra trong một chữ, ví dụ như trường hợp âm kết thúc của thân và âm đầu của phần đuôi suffix gặp nhau, với kết quả là âm kết thúc của thân và khởi âm của phần đuôi biến đổi. Sự biến đổi về âm này được ngữ pháp Phạn ngữ truyền thống gọi là sandhi, dịch sát nghĩa là “kết hợp”, “liên hợp”. Vì âm đọc biến đổi nên từ “hợp biến” cũng trình bày rất chính xác sự việc. Người ta phân biệt hai loại hợp biến, hợp biến trong câu ngoại hợp biến và hợp biến ngay trong một chữ nội hợp biến. Tóm tắt hết các luật hợp biến thì có khoảng 25 luật. Sau đây là một vài ví dụ cho những quy luật âm vận cực kì phức tạp này rāmaḥ atra tiṣṭhati → rāmo ’tra tiṣṭhati tatra + udyānaṃ kṛṣati → tatrodyānaṃ kṛṣati gṛhe + ācāryaḥ + tiṣṭhati → gṛha ācāryastiṣṭhati Chữ viết Tiếng Phạn không có một chữ viết đặc thù nhìn theo khía cạnh lịch sử. Vua A-dục dùng chữ Brahmī ghi lại lời văn của mình trên những cột trụ không phải tiếng Phạn mà là những ngôn ngữ khác hoặc những phương ngôn khác. Khoảng cùng thời với chữ Brahmī, người ta cũng đùng chữ Kharoṣṭhī đang được hiệp hội Unicode duyệt nhập. Sau một thời gian thế kỷ 4 đến thế kỷ 8, chữ Gupta, vốn được phát triển từ chữ Brahmīlại thịnh hành. Từ khoảng thế kỉ thứ 8 trở đi, chữ Śarada được phát triển từ chữ Gupta và trở nên thông dụng, nhưng lại được thay thế hoàn toàn bởi chữ Devanāgarī, với trung gian là chữ Siddham Tất-đàm tự. Những chữ khác được dùng để ghi tiếng Phạn là Kannada ở miền Nam, chữ Grantha ở những vùng nói tiếng Tamil, chữ Bengali và những chữ khác ở những vùng miền Bắc Ấn. Từ thời trung cổ và đặc biệt trong thời hiện đại, chữ Devanāgarī Thiên thành tự hình, là “chữ được dùng ở thành của chư thiên” rất thông dụng và trở thành chữ viết chính cho tiếng Phạn. Ở những vùng chữ Devanāgarī không là chữ viết của tiếng địa phương thì người ta có thể tìm thấy những văn bản tiếng Phạn vẫn được viết bằng những phương ngôn này. Tại Ấn Độ, chữ viết được đưa vào tương đối trễ và cũng không trở thành một phương tiện quan trọng vì khẩu truyền vẫn được xem là phương tiện hạng nhất để truyền trao kiến thức. Thomas William Rhys Davids đưa kiến nghị là chữ viết có lẽ được du nhập từ Trung Đông bởi các thương gia. Nhưng tiếng Phạn, vốn được dùng gần như chỉ trong khung cảnh tôn giáo linh thiêng vẫn giữ chức năng ngôn ngữ truyền miệng cho đến thời kì Hoa văn. Từ thế kỉ 19, tiếng Phạn đã được ký âm dùng bảng chữ cái Latinh. Tiêu chuẩn phổ biến nhất là IAST International Alphabet of Sanskrit Transliteration, được dùng làm chuẩn học thuật từ 1912. Các phương án khác cũng được phát triển khi người ta phải đối đầu những khó khăn khi trình bày chữ Phạn trên máy tính. Thuộc vào những phương án này là Harvard-Kyoto và ITRANS, một phương án ký âm không tổn thất được dùng nhiều trên mạng toàn cầu đặc biệt là Usenet. Cho những tác phẩm học thuật, chữ Devanāgarī được chuộng dùng để trình bày toàn văn bản tiếng Phạn và những trích dẫn dài. Tuy nhiên, sự trích dẫn những thuật ngữ đặc thù và tên riêng trong những văn bản được viết bằng chữ Latinh vẫn đòi hỏi cách ký âm tiếng Phạn bằng chữ Latinh. Ngữ pháp Hệ thống động từ Hữu hạn định, vô hạn định Hệ thống động từ Phạn ngữ phân biệt giữa động từ hữu hạn định finite và động từ vô hạn định infinite. Khác các dạng động từ vô hạn định, tất cả các động từ hữu hạn định đều có đuôi được lập theo ngôi xưng personal suffix. Các dạng động từ hữu hạn định phân biệt giữa các loại ngôi xưng, số, thời gian, hình thức và dạng phân biệt chủ/thụ động. Nên biết là hệ thống động từ hữu hạn định trong tiếng Phạn rất phức tạp và hàm chứa rất nhiều cách chia. Thời thái, số và hình thức Các động từ hữu hạn định finite verb trong Phạn ngữ phân biệt giữa thời thái, số và hình thức. Về thời thái, tiếng Phạn có sáu thời thái Hiện tại present Thể chưa hoàn thành imperfect Thể hoàn thành perfect Quá khứ bất định aorist Tương lai future. Phạn ngữ phân biệt giữa một thời vị lai đơn giản và một vị lai nói vòng periphrastic, và vị lai đơn giản là dạng thường gặp hơn. Câu điều kiện conditional diễn đạt một sự kiện có thể xảy ra nếu các điều kiện quy tụ, hoặc cảm thán. Ví dụ “Giá mà cô ấy có ở nhà!” Trong ba dạng quá khứ thì Bất định quá khứ ít xuất hiện so với hai dạng kia. Cả ba dạng quá khứ vốn khác nhau một cách vi tế về mặt ngữ nghĩa semantic Vị hoàn thành thể chỉ một hành động nằm trong quá khứ xa hơn trước lời trần thuật và được thấy bởi người nói; Hoàn thành thể cũng chỉ một hành động nằm trong qua khứ xa trước ngày lời trần thuật được nói nhưng không được chứng kiến bởi người trần thuật; Bất định quá khứ thì lại trình bày quá khứ gần, chỉ một hành động xảy ra ngay ngày nói. Tuy nhiên, trong Hoa văn Phạn ngữ classical sanskrit thì những điểm khác nhau về ngữ nghĩa đã mất và cả ba đều được sử dụng không khác nghĩa. Thêm vào đó Phạn ngữ còn có ba hình thức Chỉ thị indicative hay Biểu thị Mệnh lệnh imperative, biểu thị yêu cầu, mệnh lệnh. Ví dụ “Hãy đi chỗ khác!” Kì nguyện optative, diễn đạt một ước nguyện, ví dụ “Cầu mong tôi thi đậu!”. Cách sử dụng gần giống như câu điều kiện. Các dạng chia động từ tiếng Phạn còn phân biệt giữa Ngôi thứ và Số. Ngoài số ít và số nhiều, tiếng Phạn còn có thêm một số thứ ba là số hai dual. Tuy nhiên, số hai rất ít thấy so với số ít và số nhiều. Số ít anh/cô ấy/nó đi Số hai hai anh/cô, hai nó đi Số nhiều các anh/cô ấy, chúng nó đi. Ngôi thứ cũng có ba ngôi thứ nhất tôi, chúng tôi, ngôi thứ hai anh, các anh và ngôi thứ ba cô ấy, các chị ấy. Như vậy thì mỗi cách chia động từ cho từng 6 thời thái present, imperfect, perfect, aorist, future, conditional và từng 3 hình thức imperative, optative, indicative bao gồm 3 ngôi × 3 số = 9 dạng. Ví dụ như động từ đi, √gam, có 9 dạng chia như sau Số ít Số hai Số nhiều Ngôi thứ nhất Tôi đi Hai chúng tôi đi Chúng tôi đi Ngôi thứ hai Anh đi Hai Anh đi Các Anh đi Ngôi thứ ba anh/cô ấy, nó đi hai anh/cô ấy/đứa nó đi chúng nó đi Phân loại động từ Có tổng cộng 10 nhóm động từ. Mười nhóm này lại được phân thành hai loại, thematic, tạm dịch là hợp quy tắc và athematic, tạm dịch là bất quy tắc. Các nhóm hợp quy tắc bao gồm 1, 4, 6, 10. Đặc điểm của các nhóm này là đuôi của thân động từ lúc nào cũng là –a. Như vậy thì thân động từ hiện tại lúc nào cũng được gắn thêm tiếp vĩ âm –a hoặc một tiếp vĩ âm có đuôi –a. Thêm vào đó là thân động từ hiện tại của những nhóm thematic không biến đổi khi động từ được chia. Tất cả những nhóm khác — 2, 3, 5, 7, 8, và 9 — đều là athematic. Các nhóm động từ này thiếu đặc điểm –a và thân động từ biến đổi khi được chia. Vị tha ngôn, vị tự ngôn Khi chia động từ cho 6 thời thái và 3 hình thức thì tiếng Phạn còn phân biệt giữa hai dạng Vị tha sa. parasmaipada và Vị tự sa. ātmanepada. Parasmaipada nguyên nghĩa là “câu nói liên hệ đến người khác”, được dịch ở đây là Vị tha ngôn và theo các nhà ngữ pháp Ấn Độ thì đây có nghĩa là chủ thể thực hiện một hành động cho người khác, trong khi ātmanepada, “câu nói cho chính mình”, Vị tự ngôn, thì lại chỉ một hành động được chủ thể làm cho riêng mình. Ví dụ Parasmaipada “anh ấy/cô ấy/nó cúng tế cái gì đó cho/giúp một người khác” Ātmanepada “anh ấy/cô ấy/nó cúng tế cái gì đó cho chính mình” Tuy nhiên, Hoa văn Phạn ngữ thường không phân biệt giữa hai cách chia động từ này và cách phân chia parasmaipada/ātmanepada thường chỉ là hình thức bề ngoài. Như thế thì mỗi dạng trong năm thời thái và ba hình thức của Phạn ngữ lại có thêm hai cách chia khác nhau. Cả hai loại chia parasmaipada/ātmanepada đều mang nghĩa chủ động. Chủ động, bị động Tiếng Phạn cũng phân biệt giữa hai dạng năng/chủ động active và bị/thụ động passive. Nhưng người ta chỉ tìm thấy cách chia thể bị động trong 2 của 6 thời cũng như ba hình thức. Trong bốn thời còn lại thì thể bị động được thay thế bằng cách biến hoá động từ theo vị tự cách sa. ātmanepada. Gốc động từ, thân động từ Trong tiếng Phạn, mỗi động từ đều có một dạng trừu tượng được liệt kê trong từ điển và được gọi là gốc động từ verb root. Các dạng khác nhau của một động từ đều được hình thành từ gốc động từ này. Trong khi một động từ trong Anh và Đức ngữ được thâu nhập vào từ điển dưới dạng bất định infinitive, có khi gọi không chính xác lắm là “nguyên mẫu” thì trong tiếng Phạn, nó được ghi lại dưới dạng gốc. Như thế thì tất cả các động từ trong Phạn ngữ đều được liệt kê trong từ điển dưới dạng gốc. Một dạng động từ hữu hạn định finite được hình thành khi ta lập một thân động từ từ gốc động từ bằng cách biến đổi hoặc mở rộng gốc động từ, ví dụ như thêm vào một tiếp vĩ âm hay hậu tố, hoặc một tiếp đầu âm hay tiền tố, hoặc một từ trùng reduplication hoặc một cách chuyển mẫu âm ngay trong gốc động từ. Sau đó, các nhân xưng tiếp vĩ âm được gắn thêm vào. Ví dụ Gốc động từ pac nấu ăn Thân động từ dạng hiện tại pac-a nấu ăn Dạng động từ hiện tại pac-a-ti ông ta, cô ấy, nó nấu Thân động từ dạng vị lai pak-ṣya sẽ nấu Dạng động từ vị lai pak-ṣya-ti ông ta, cô ấy, nó sẽ nấu Như vậy thì dạng động từ ngôi thứ ba, số ít, hiện tại, vị tha của √pac “nấu ăn”, được hình thành trước hết qua sự tạo một thân động từ dạng hiện tại bằng tiếp vĩ âm –a, sau đó nhân xưng tiếp vĩ âm dành cho ngôi thứ ba là –ti được thêm vào. Trường hợp hình thành dạng vị lai cũng tương tự như vậy. Trước hết, thân động từ vị lai pak-ṣya được tạo, sau đó nhân xưng tiếp vĩ âm được gắn vào. Những thành phần được dùng để tạo một thân và chia động từ bao gồm động từ tiếp đầu âm hay tiền tố động từ, động từ tiếp vĩ âm hay hậu tố động từ và động từ sáp nhập âm hay nội tố động từ. Hiện tượng phân độ nguyên âm vowel gradation cũng thường được thấy. Phân độ nguyên âm Dưới “phân độ nguyên âm” các nhà văn phạm hiểu một sự chuyển biến của nguyên âm hoặc phức hợp âm dưới nhiều dạng của một âm tiết căn bản. Các dạng khác nhau này có thể được hình thành qua sự biến đổi âm cuối của danh từ flexion hoặc một sự diễn sinh từ một chữ gốc nhất định derivation. Theo các nhà văn phạm truyền thống thì các mẫu âm đơn như a, ā, i, ī, u, ū, ṛ, ṝ, ḷ, thường được biến đổi, và sự biến đổi này lại có hai phân độ, được gọi là guṇa, có thể gọi là cường hoá, là tăng độ mạnh, và vṛddhi tức là kéo dài. Hai cấp guṇa và vṛddhi của các mẫu âm đơn nhìn cụ thể như sau Nguyên âm đơn a, ā i, ī u, ū ṛ, ṝ ḷ Phân độ guṇa a, ā e o ar al Phân độ vṛddhi ā ai au ār — Các nguyên âm của hai cấp guṇa và vṛddhi trên tương ưng với biến âm khi các mẫu âm đơn căn bản được biến hoá bằng cách đặt mẫu âm a– phía trước. Nêu lưu ý là a không biến đổi ở cấp guṇa và ā vẫn giữ dạng gốc ở cả hai cấp guṇa và vṛddhi. Khi gốc động từ được biến hoá, ví dụ như khi thân động từ hiện tại được hình thành, ta thường thấy sự biến đổi âm theo hai phân độ trên. Ví dụ như ṛ—ar—ār. Một ví dụ tiêu biểu khác là động từ hṛ “nắm lấy, giữ lấy”. Thân động từ với mẫu âm ṛ được thay thế bằng ar ở cấp guṇa har-a-ti, và khi chia ở dạng sai khiến causative thì được thay bằng ār ở cấp vṛddhi hār-aya-ti. Hệ thống động từ hiện tại Hệ thống động từ thời hiện tại bao gồm hiện tại với những hình thức khác nhau là kì nguyện optative, mệnh lệnh imperative và hư nghĩ subjunctive, cũng như vị hoàn thành quá khứ imperfect vì hai thời thái này đều có cùng thân động từ hiện tại. Thân động từ hiện tại được lập bằng nhiều cách, được trình bày bên dưới. Số đi trước chỉ số nhóm của chúng, vốn được các nhà văn phạm truyền thống liệt kê như vậy. Các động từ hợp quy tắc, thematic, có thân hiện tại được hình thành như sau Nhóm 1 Thêm tiếp vĩ âm a vào thân với âm tiết chính đã được chuyển sang cấp guṇa. Ví dụ √ruh “lớn lên, trưởng thành”, roh-a. Nhóm 4 Thêm tiếp vĩ tự ya vào gốc, và gốc giữ nguyên dạng. Ví dụ √tuṣ, “vui sướng”, tuṣ-ya. Nhóm 6 gắn tiếp vĩ âm a vào gốc và khác trường hợp nhóm 1, gốc của nhóm 6 vẫn được giữ nguyên. Ví dụ √viś “bước vào”, viś-a. Nhóm 10 Nhóm này được các nhà văn phạm truyền thống quy về một quá trình có bản chất diễn sinh và như thế, không là một nhóm thật sự. Các động từ bất quy tắc, athematic, có thân hiện tại được hình thành như sau Nhóm 2 Không có biến đổi. Ví dụ √ad “ăn”, ad. Nhóm 3 Trùng tự hoá reduplication đầu gốc động từ. Ví dụ √hu “cúng tế”, juhu. Nhóm 5 Thêm tiếp vĩ tự nu no ở phân độ guṇa. Ví dụ √nu “ép”, sunu. Nhóm 7 Thêm sáp nhập âm infix na hoặc chữ n trước phụ âm cuối của gốc động từ. Ví dụ √rudh “cản trở”, rundh hoặc ruṇadh Nhóm 8 Thêm tiếp vĩ tự u o ở phân độ guṇa. Ví dụ √tan “trải tra”, tan-u Nhóm 9 Thêm tiếp vĩ tự nā cấp số 0 là nī hoặc n. Ví dụ √krī “mua”, krī-ṇā hoặc krī-ṇī. Hệ thống động từ hoàn thành quá khứ Hệ thống này chỉ bao gồm một thời thái duy nhất, là hoàn thành quá khứ perfect tense. Thân động từ của hoàn thành quá khứ được lập bằng cách trùng tự hoá như các động từ nhóm 3 của hệ thống hiện tại. Hệ thống này cũng bao hàm hai dạng thân mạnh và yếu của động từ. Thân mạnh được dùng với ba ngôi xưng số ít, chủ động. Thân yếu được dùng với những ngôi xưng còn lại. Hệ thống động từ đệ tam quá khứ Hệ thống này bao gồm đệ tam quá khứ thật sự với ý nghĩa chỉ quá khứ, ví dụ abhūḥ “Anh đã là” và một vài dạng thật xưa của chỉ lệnh 指令, injunctive, thường được dùng với tiểu từ mā chỉ sự cấm chỉ, ví dụ mā bhūḥ “chớ có là…!”. Sự khác biệt đáng kể nhất ở đây là sự có hoặc vắng mặt của âm gia tăng a– augment làm tiếp đầu âm. Cách lập thân đệ tam quá khứ khá phức tạp và chỉ cần biết ở đây là có tổng cộng 7 dạng đệ tam quá khứ. Hệ thống động từ vị lai Trong hệ thống này, thân động từ được lập bằng cách gắn tiếp vĩ tự sya hoặc iṣya vào gốc động từ ở phân độ guṇa. Động từ Cách chia Mỗi động từ đều có một thể ngữ pháp grammatical voice, hoặc là thể chủ động active, bị động passive hoặc trung gian medium. Cũng có một thể khách quan có thể được xem là thể bị động của những động từ bất cập vật intransitive verbs. Động từ tiếng Phạn có ba hình thái đáng lưu ý là chỉ thị indicative, kì nguyện optative và mệnh lệnh imperative. Cổ Phạn văn cũng có dạng subjunctive, chỉ sự lo toan hư cấu nhưng chúng đã bị loại gần hết từ khi Hoa văn Phạn ngữ thịnh hành. Hậu tố động từ căn bản Các hậu tố của động từ tiếng Phạn hàm chứa ngôi xưng, số và cách chia theo vị tự ngôn/vị tha ngôn. Các dạng hậu tố khác nhau được dùng tuỳ theo thân động từ thuộc thời thái và hình thức nào chúng được gắn vào. Thân động từ và chính ngay những hậu tố này có thể biến đổi vì quy luật hợp biến. Parasmaipada vị tha ngôn Ātmanepada vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Đệ nhất Ngôi thứ nhất mi vaḥ maḥ e vahe mahe Ngôi thứ hai si thaḥ tha se āthe dhve Ngôi thứ ba ti taḥ anti, ati te āte ante, ate Đệ nhị Ngôi thứ nhất am va ma i, a vahi mahi Ngôi thứ hai ḥ tam ta thāḥ āthām dhvam Ngôi thứ ba t tām an, uḥ ta ātām anta, ata, ran Quá khứ hoàn thành Ngôi thứ nhất a va ma e vahe mahe Ngôi thứ hai tha athuḥ a se āthe dhve Ngôi thứ ba a atuḥ uḥ e āte re Mệnh lệnh Ngôi thứ nhất āni āva āma ai āvahai āmahai Ngôi thứ hai dhi, hi, — tam ta sva āthām dhvam Ngôi thứ ba tu tām antu, atu tām ātām antām, atām Hậu tố đệ nhất được dùng cho hiện tại chỉ thị present indicative và tương lai. Hậu tố đệ nhị được dùng với quá khứ chưa hoàn thành, điều kiện, quá khứ bất định và kì nguyện imperfect, conditional, aorist, optative. Hậu tố của quá khứ hoàn thành và mệnh lệnh được dùng với quá khứ hoàn thành và mệnh lệnh cách. Cách chia động từ thời hiện tại Chia động từ thời hiện tại xử lý tất vả những dạng của động từ bằng cách dùng thời hiện tại. Nó bao gồm thời hiện tại của tất cả hình thức cũng như đệ nhất quá khứ chỉ thị imperfect indicative. Sự tương phản của thân mạnh/yếu được phản ánh khác nhau tuỳ vào nhóm động từ Cách chia các động từ bất quy tắc Hệ thống hiện tại phân biệt giữa thân mạnh và yếu của động từ. Thân mạnh xuất hiện ở 13 dạng Ngôi thứ 1, 2 và 3 số ít ở thì hiện tại và parasmaipada không hoàn thành. Ngôi thứ nhất số ít, kép, số nhiều ở thì parasmaipada và ātmanepada mệnh lệnh Ngôi thứ ba số ít ở thì parasmaipada mệnh lệnh Ở tất cả những dạng khác thì thân yếu xuất hiện. Nhóm Thân Cách lập thân Ví dụ Ngôi thứ 3 số ít, hiện tại paras./ātm. 2 Thân mạnh √ ở guṇa + suffix dviṣ द्विष् “ghét” dveṣṭi द्वेष्टि ― Thân yếu √ + suffix ― dviṣṭe द्विष्टे 3 Thân mạnh redup. √ ở guṇa + suffix bhṛ भृ “mang, vác” bibharti बिभर्ति ― Thân yếu redup. √ + suffix ― bibhṛte बिभृते 5 Thân mạnh √ + -no- + suffix āp आप् “đắc, đạt” āpnoti आप्नोति ― Thân yếu √ + -nu- + suffix ― āpnute आप्नुते 7 Thân mạnh √ + infix -na- + suffix bhid भिद् “chẻ” bhinatti भिनत्ति ― Thân yếu √ + infix -n- + suffix ― bhintte भिन्त्ते 8 Thân mạnh √ + -o- + suffix tan तन् “kéo ra” tanoti तनोति ― Thân yếu √ + -u- + suffix ― tanute तनुते 9 Thân mạnh √ + -nā- + suffix kṛī क्री “mua” krīṇāti क्रीणाति ― Thân yếu √ + -nī- + suffix ― krīṇīte क्रीणीते Sau đây là bảng chia động từ dviṣ द्विष् “ghét” thuộc nhóm 2 Chỉ thị Vị tha ngôn Vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Hiện tại Ngôi thứ 1 dveṣmi dviṣvaḥ dviṣmaḥ dviṣe dviṣvahe dviṣmahe Ngôi thứ 2 dvekṣi dviṣṭhaḥ dviṣṭha dvikṣe dviṣāthe dviḍḍhve Ngôi thứ 3 dveṣṭi dviṣṭaḥ dviṣánti dviṣṭe dviṣāte dviṣate Vị hoàn thành quá khứ Ngôi thứ 1 adveṣam adviṣva adviṣma adviṣi adviṣvahi adviṣmahi Ngôi thứ 2 adveṭ adviṣṭam advisṭa adviṣṭhāḥ adviṣāthām adviḍḍhvam Ngôi thứ 3 adveṭ adviṣṭām adviṣan adviṣṭa adviṣātām adviṣata Kì nguyện hay mong mỏi optative dùng đệ nhị tiếp vĩ âm. yā được gắn vào thân ở thể chủ động, và ī ở thể thụ động. Mong mỏi Vị tha ngôn Vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Ngôi thứ 1 dviṣyām dviṣyāva dviṣyāma dviṣīya dviṣīvahi dviṣīmahi Ngôi thứ 2 dviṣyāḥ dviṣyātam dviṣyāta dviṣīthāḥ dviṣīyāthām dviṣīdhvam Ngôi thứ 3 dviṣyāt dviṣyātām dviṣyuḥ dviṣīta dviṣīyātām dviṣīran Hình thức mệnh lệnh dùng tiếp vĩ âm riêng của mệnh lệnh. Mệnh lệnh Vị tha ngôn Vị tự ngôn Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Ngôi thứ 1 dveṣāṇi dveṣāva dveṣāma dveṣai dveṣāvahai dveṣāmahai Ngôi thứ 2 dviḍḍhi dviṣṭam dviṣṭa dvikṣva dviṣāthām dviḍḍhvám Ngôi thứ 3 dveṣṭu dviṣṭām dviṣantu dviṣṭām dviṣātām dviṣatām Hệ thống danh từ Người ta phân biệt hai loại thân danh từ substantive và adjective tuỳ theo tự vĩ của chúng, và gọi chúng thân nguyên âm vowel stem hoặc thân phụ âm consonantal stem. Mỗi thân danh từ đều có, như trường hợp tiếng Đức, một trong ba giới tính Nam tính masculine Nữ tính feminine Trung tính neuter Ngoài trường hợp các danh từ chỉ người ra thì giới tính của một danh từ phần lớn đều là tuỳ tiện. Chủng loại giới tính của mỗi thân danh từ đều có sẵn và người ta cũng không ghi chú dụ như các danh từ với đuôi –i và –u đều được tìm thấy ở ba giới tính. Tuy nhiên, ta có thể nhận ra giới tính ở một vài danh từ, ví dụ như trường hợp danh từ có đuôi –ā và –ī. Chúng đều là nữ tính. Về mặt biến đổi flexion, các danh từ khác nhau ở số numerus và sự kiện casus. Về mặt số thì có ba số như trường hợp các động từ hữu hạn định. Về mặt sự kiện casus, Phạn ngữ không những có các sự kiện như trong tiếng Đức là Nominative, Accusative, Dative và Genitive hoặc như tiếng Latinh với thêm hai sự kiện Ablative và Vocative, mà còn có thêm hai phần nữa là Instrumental và Locative. Như vậy, Phạn ngữ phân biệt 8 sự kiện theo thứ tự sau Nominative Chủ cách. Accusative Trực bổ cách, Trực tiếp thụ cách. Instrumental Dụng cụ cách Dative Gián bổ cách, Dữ cách, Vị cách. Ablative Nguyên uỷ, Đoạt cách, Li cách Genitive Thuộc cách, Sở hữu cách. Locative Vị trí cách Vocative Hô cách. Từ 3 số và 8 sự kiện ta có tất cả ba x 8 = 24 dạng biến hoá ở đuôi của một chữ. Số lượng của tự vĩ biến hoá tuỳ thuộc vào âm cuối của thân danh từ và chủng loại của nó. Hai đặc tính này xác định một hạng danh từ. Các thân danh từ với đuôi phụ âm là –i hoặc –u đều có mặt ở ba giới tính và vì vậy, chúng hình thành ba hạng danh từ nam, nữ và trung tính với mẫu âm cuối là –i. Ví dụ Nam tính kavi “thi sĩ” Nữ tính mati “trí” Trung tính vāri “nước” Mỗi hạng danh từ trên đều có tự vĩ biến hoá riêng. Trên cơ sở này mà người ta phân biệt trên 20 hạng danh từ và tự vĩ biến hoá. Tuy nhiên, các hạng này không khác nhau hết ở 24 cách. Một vài loại tự vĩ biến hoá chỉ khác nhau ở một hoặc hai sự kiện. Người ta phân biệt như sau Thân mẫu âm vowel stem Nam tính –a Trung tính –a Nữ tính –ā Nam tính –i Nữ tính –i Trung tính –i Nam tính –u Nữ tính –u Trung tính –u Nữ tính –ī Nữ tính –ū Nữ tính –ī, đơn âm tiết monosyllable Nữ tính –ū, đơn âm tiết monosyllable Nam tính –ṛ danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun Nữ tính –ṛ danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun Trung tính –ṛ danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun Nam tính –ṛ danh từ chỉ người thân, noun of relations Nữ tính –ṛ danh từ chỉ người thân, noun of relations Nam tính –phức âm Nữ tính –phức âm Thân phụ âm consonantal stem Nam tính –phụ âm ngoài –s,n Nữ tính –phụ âm ngoài –s,n Trung tính –phụ âm ngoài –s,n Nam/Nữ tính –as, –is, –us Trung tính –as, –is, –us Nam/Nữ tính –an Trung tính –an Nam tính –in Trung tính –in Ngoài những dạng trên ta còn tìm thấy một vài tự vĩ biến hoá cho một vài hình dung từ và phân từ nhất định. Điều cần biết nữa là các đại danh từ pronoun, đại danh từ chỉ thị demonstrative pronoun và số từ — cả ba đều được xếp vào danh từ — đều có tự vĩ biến hoá riêng. Thân có âm kết thúc -a Nhóm thân có âm kết thúc –a là nhóm lớn nhất. Các danh từ loại này chỉ có thể là nam hoặc trung tính. kāma “tình yêu”, nam tính āsya “mồm”, trung tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative kāmaḥ kāmau kāmāḥ āsyam āsye āsyāni Accusative kāmam kāmau kāmān āsyam āsye āsyāni Instrumental kāmena kāmābhyām kāmaiḥ āsyena āsyābhyām āsyaiḥ Dative kāmāya kāmābhyām kāmebhyaḥ āsyāya āsyābhyām āsyebhyaḥ Ablative kāmāt kāmābhyām kāmebhyaḥ āsyāt āsyābhyām āsyebhyaḥ Genitive kāmasya kāmayoḥ kāmānām āsyasya āsyayoḥ āsyānām Locative kāme kāmayoḥ kāmeṣu āsye āsyayoḥ āsyeṣu Vocative kāma kāmau kāmāḥ āsya āsye āsyāni Thân có âm kết thúc -i và -u Thân -i gati “đường đi”, nữ tính vāri “nước”, trung tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative gatiḥ gatī gatayaḥ vāri vāriṇī vārīṇi Accusative gatim gatī gatīḥ vāri vāriṇī vārīṇi Instrumental gatyā gatibhyām gatibhiḥ vāriṇā vāribhyām vāribhiḥ Dative gataye, gatyai gatibhyām gatibhyaḥ vāriṇe vāribhyām vāribhyaḥ Ablative gateḥ, gatyāḥ gatibhyām gatibhyaḥ vāriṇaḥ vāribhyām vāribhyaḥ Genitive gateḥ, gatyāḥ gatyoḥ gatīnām vāriṇaḥ vāriṇoḥ vāriṇām Locative gatau, gatyām gatyoḥ gatiṣu vāriṇi vāriṇoḥ vāriṣu Vocative gate gatī gatayaḥ vāri, vāre vāriṇī vārīṇi Thân -u śatru “kẻ thù”, nam tính madhu “mật ong”, trung tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative śatruḥ śatrū śatravaḥ madhu madhunī madhūni Accusative śatrum śatrū śatrūn madhu madhunī madhūni Instrumental śatruṇā śatrubhyām śatrubhiḥ madhunā madhubhyām madhubhiḥ Dative śatrave śatrubhyām śatrubhyaḥ madhune madhubhyām madhubhyaḥ Ablative śatroḥ śatrubhyām śatrubhyaḥ madhunaḥ madhubhyām madhubhyaḥ Genitive śatroḥ śatrvoḥ śatrūṇām madhunaḥ madhunoḥ madhūnām Locative śatrau śatrvoḥ śatruṣu madhuni madhunoḥ madhuṣu Vocative śatro śatrū śatravaḥ madhu madhunī madhūni Thân có âm kết thúc là nguyên âm dài, đơn âm tiết Thân –ā, jā “thần đồng” Thân –ī, dhī “sự suy nghĩ” Thân ū, bhū “đất” Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative jāḥ jāu jāḥ dhīḥ dhiyau dhiyaḥ bhūḥ bhuvau bhuvaḥ Accusative jām jāu jāḥ, jaḥ dhiyam dhiyau dhiyaḥ bhuvam bhuvau bhuvaḥ Instrumental jā jābhyām jābhiḥ dhiyā dhībhyām dhībhiḥ bhuvā bhūbhyām bhūbhiḥ Dative je jābhyām jābhyaḥ dhiye, dhiyai dhībhyām dhībhyaḥ bhuve, bhuvai bhūbhyām bhūbhyaḥ Ablative jaḥ jābhyām jābhyaḥ dhiyaḥ, dhiyāḥ dhībhyām dhībhyaḥ bhuvaḥ, bhuvāḥ bhūbhyām bhūbhyaḥ Genitive jaḥ joḥ jānām, jām dhiyaḥ, dhiyāḥ dhiyoḥ dhiyām, dhīnām bhuvaḥ, bhuvāḥ bhuvoḥ bhuvām, bhūnām Locative ji joḥ jāsu dhiyi, dhiyām dhiyoḥ dhīṣu bhuvi, bhuvām bhuvoḥ bhūṣu Vocative jāḥ jau jāḥ dhīḥ dhiyau dhiyaḥ bhūḥ bhuvau bhuvaḥ Thân có âm kết thúc -ṛ Thân -ṛ phần lớn chỉ người làm, thực hiện một hành động, ví như dātṛ “người đưa”, mặc dù thân này cũng bao hàm một số danh từ chỉ quyến thuộc, ví dụ như pitṛ “cha”, mātṛ “mẹ”, và svasṛ “chị/em gái”. Số ít Số hai Số nhiều Nominative pitā pitarau pitaraḥ Accusative pitaram pitarau pitṝn Instrumental pitrā pitṛbhyām pitṛbhiḥ Dative pitre pitṛbhyām pitṛbhyaḥ Ablative pituḥ pitṛbhyām pitṛbhyaḥ Genitive pituḥ pitroḥ pitṝṇām Locative pitari pitroḥ pitṛṣu Vocative pitaḥ pitarau pitaraḥ Nhân xưng đại danh từ Ngôi xưng thứ nhất và thứ hai được biến hoá song song và có nhiều điểm tương đồng. Lưu ý Ở ba sự kiện Accusative, Dative và Genitive thì hai nhân xưng đại danh từ này có dị dạng. Những dạng nằm trong ngoặc thuộc loại phụ đới ngữ enclitic nên chúng không bao giờ đứng ở đầu câu hoặc sau những tiểu từ bất biến như च ca, वा vā và एव eva. Ngôi thứ nhất Ngôi thứ hai Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative aham āvām vayam tvam yuvām yūyam Accusative mām mā āvām nau asmān naḥ tvām tvā yuvām vām yuṣmān vaḥ Instrumental mayā āvābhyām asmābhiḥ tvayā yuvābhyām yuṣmābhiḥ Dative mahyam me āvābhyām nau asmabhyam naḥ tubhyam te yuvābhyām vām yuṣmabhyam vaḥ Ablative mat āvābhyām asmat tvat yuvābhyām yuṣmat Genitive mama me āvayoḥ nau asmākam naḥ tava te yuvayoḥ vām yuṣmākam vaḥ Locative mayi āvayoḥ asmāsu tvayi yuvayoḥ yuṣmāsu Đại danh từ chỉ thị tad demonstrative pronoun được biến hoá bên dưới cũng giữ chức năng nhân xưng đại danh từ ngôi thứ ba. Nam tính Trung tính Nữ tính Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Số ít Số hai Số nhiều Nominative saḥ tau te tat te tāni sā te tāḥ Accusative tam tau tān tat te tāni tām te tāḥ Instrumental tena tābhyām taiḥ tena tābhyām taiḥ tayā tābhyām tābhiḥ Dative tasmai tābhyām tebhyaḥ tasmai tābhyām tebhyaḥ tasyai tābhyām tābhyaḥ Ablative tasmāt tābhyām tebhyam tasmāt tābhyām tebhyam tasyāḥ tābhyām tābhyaḥ Genitive tasya tayoḥ teṣām tasya tayoḥ teṣām tasyāḥ tayoḥ tāsām Locative tasmin tayoḥ teṣu tasmin tayoḥ teṣu tasyām tayoḥ tāsu Hợp thành từ Một trong những điểm đặc thù nổi bật nhất của tiếng Phạn là số lượng lớn và cấu trúc phức tạp của từ hợp thành. Tương tự trong tiếng Đức, hợp thành từ cũng được ghi chung và xuất hiện như một đơn vị từ thái. Tuy nhiên, một hợp thành từ trong tiếng Phạn chỉ là một từ về mặt hình thái. Về mặt văn phạm thì hợp từ này không phải là một từ, mà là một cấu trúc ngữ nghĩa được hình thành từ nhiều chữ. Trong Phạn văn, mỗi hình dung từ được phối hợp với một danh từ trong một phiến ngữ phrase đều có thể được phối hợp với một thật danh từ substantive. Ví dụ như śānta शान्त “tĩnh lặng” có thể xuất hiện trong một đoạn câu śāntaṃ nagaram शान्तं नगरम् “thành phố tĩnh lặng” hoặc trong một hợp thành từ śāntanagaram शान्तनगरम् “thành phố tĩnh lặng” Hợp thành từ có thể được tạo một cách rất tự do, cụ thể là làm sao tạo cho tương ưng với những quy tắc, những hợp thành từ đã được tìm thấy trong những tác phẩm văn hoá. Như vậy thì trong Phạn văn, hợp thành từ có thể được tạo tương tự như những phiến ngữ hoặc những câu một cách ad hoc. Và cũng như trường hợp lập đoạn câu và những câu, ta không thấy sự hạn chế nào về mặt tạo hợp thành ngữ trong Phạn văn cả. Chỉ một vài quy tắc nhỏ được các nhà văn phạm truyền thống liệt kê ra. Quy tắc tạo hợp thành từ Cách tạo hợp thành từ luôn luôn theo một quy tắc giống nhau Những từ như thật danh từ substantive, hình dung từ adjective, quá khứ phân từ thụ động participle preterite passive cũng như những từ không biến đổi như phó từ adverb được nối lại với nhau và thành phần đi trước — có nghĩa là tất cả những thành phần ngoài thành phần cuối — xuất hiện dưới dạng thân nguyên thuỷ, tức là không được biến hoá. Trong lúc nối những thành phần của hợp từ lại thì luật ngoại hợp biến được ứng dụng một vài ngoại hạng tham khảo thêm Stenzler §307 Thành phần thứ hai hoặc thành phần cuối đi sau của hợp từ được biến hoá tuỳ ngữ cảnh. Người ta phân biệt năm loại hợp thành từ tương ưng với các nhóm ngữ cán thân/gốc của từ xuất hiện ở phần trước hoặc sau của một hợp từ, tương ưng với mối quan hệ ngữ pháp/nghĩa giữa phần trước và sau của hợp từ. Những thuật ngữ sau đây được dùng như cách trình bày của các nhà Phạn học truyền thống. Cách gọi trong ngoặc lấy từ văn phạm của những nhóm ngôn ngữ châu Âu. Tatpuruṣa Hợp thành từ xác định determinative compound Karmadhāraya Hợp thành từ miêu tả descriptive compound Bahuvrīhi Hợp thành từ mang tính chất định ngữ attributive compound Dvandva Hợp thành từ làm đồng đẳng coordinative compound Avyayībhāva Hợp thành từ mang tính chất phó từ adverbial compound Ngoài ra người ta cũng liệt kê một loại thứ năm nữa là Amredita, chỉ sự lặp đi lặp lại. Ví dụ dive-dive “ngày qua ngày”, “mỗi ngày”. Cú pháp Vì các tiếp vĩ tự chỉ rõ các sự kiện hệ thuộc và các ngôi xưng, số nên thứ tự của các loại từ trong câu tương đối tự do, với khuynh hướng Chủ từ-Đối tượng-Động từ. Số từ Số 1 đến 10 là 1 eka एक 2 dvi द्वि 3 tri त्रि 4 catur चतुर् 5 pañcan पञ्चन् 6 ṣaṣ षष् 7 saptan सप्तन् 8 aṣṭan अष्टन् 9 navan नवन् 10 daśan दशन् Các số 1 đến 4 được biến hoá theo các sự kiện. Eka được biến hoá như một nhân xưng đại danh từ chỉ khác ở giống trung, số ít, cách chủ ngữ và bổ trực là kết thúc bằng –म् thay vì –त्. Tri và Catur được biến hoá không có quy tắc Số 3 Số 4 Nam tính Trung tính Nữ tính Nam tính Trung tính Nữ tính Cách chủ ngữ trayaḥ trīṇi tisraḥ catvāraḥ catvāri catasraḥ Cách bổ trực trīn trīṇi tisraḥ caturaḥ catvāri catasraḥ Cách công cụ tribhiḥ tisṛbhiḥ caturbhiḥ catasṛbhiḥ Cách nhận tribhyaḥ tisṛbhyaḥ caturbhyaḥ catasṛbhyaḥ Cách li tribhyaḥ tisṛbhyaḥ caturbhyaḥ catasṛbhyaḥ Cách sở hữu triyāṇām tisṛṇām caturṇām catasṛṇām Cách vị trí triṣu tisṛṣu caturṣu catasṛṣu Ảnh hưởng Ấn Độ ngày nay Ảnh hưởng lớn nhất của tiếng Phạn có lẽ là những gì nó đã mang đến những ngôn ngữ lấy cơ sở văn phạm và từ vị từ nó ra. Đặc biệt trong giới tri thức Ấn Độ, tiếng Phạn được ca ngợi là một kho báu kinh điển và những bài tụng niệm của Ấn Độ giáo. Như tiếng Latinhđã ảnh hưởng đến những ngôn ngữ châu Âu, tiếng Phạn đã ảnh hưởng lớn đến hầu hết những ngôn ngữ của Ấn Độ. Trong khi những bài tụng niệm thường được ghi dưới dạng ngôn ngữ bình dân thì những chân ngôn tiếng Phạn được trì tụng bởi hàng triệu người theo Ấn giáo và trong hầu hết những đền thờ, các nghi thức tế lễ đều được thực hiện với tiếng Phạn, thường dưới dạng Phệ-đà phạn ngữ. Những dạng ngôn ngữ cao cấp của phương ngôn vernacular Ấn Độ như tiếng Bengali, tiếng Gujarati, tiếng Marathi, tiếng Telugu và tiếng Hindi – thường được gọi là “thanh tịnh” sa. śuddha, “cao quý” – đều có độ Phạn hoá rất cao. Trong các ngôn ngữ hiện đại, trong khi tiếng Hindi dạng nói có khuynh hướng chịu ảnh hưởng nặng của tiếng Ả Rập và tiếng Ba Tư thì Bengali và Marathi vẫn lưu giữ một cơ sở từ vị to lớn. Bài quốc ca Jana Gana Mana được viết dưới dạng Bengali cao cấp, được Phạn hoá nặng nên có vẻ cổ xưa. Bài quốc ca tiền thân của Jana Gana Mana là Vande Mataram, một trước tác của Bankim Chandra Chattopadhyay được trích từ quyển Ānandmath của ông ta, là một bài thơ tiếng Phạn thuần tuý. Tiếng Malayalam, một ngôn ngữ được dùng tại bang Kerala, cũng phối hợp một số lượng từ vị tiếng Phạn đáng kể với cấu trúc ngữ pháp tiếng Tamil. Tiếng Kannada, một ngôn ngữ Nam Ấn khác cũng hàm dung từ vị tiếng Phạn. Được xem là phương tiện truyền dạy những khái niệm tâm linh, tiếng Phạn vẫn còn được ca ngợi và phổ biến tại Ấn Độ. Tiếng Phạn được nói như tiếng mẹ đẻ tại Mattur gần Shimoga, một thôn làng nằm ở trung tâm Karnataka. Dân ở đây, bất cứ giai cấp nào, đều học và đàm thoại bằng tiếng Phạn từ nhỏ. Ngay những người bản xứ theo Hồi giáo cũng nói tiếng Phạn. Nhìn theo khía cạnh lịch sử thì làng Mattur được vua Kṛṣṇadevarāja của vương quốc Vijayanagara phó uỷ cho các học giả Phệ-đà và thân quyến của họ. Từ ngữ tiếng Phạn được tìm thấy ở nhiều ngôn ngữ ngoài Ấn Độ. Ví dụ như tiếng Thái bao gồm nhiều từ mượn từ tiếng Phạn, như tên Rāvaṇa – hoàng đế Tích Lan – được người Thái gọi là Thoskonth, một từ rõ ràng xuất phát từ biệt danh tiếng Phạn khác là Daśakaṇṭha, “Người có mười cổ”. Ngay người Philippines cũng dùng chữ guro, vốn là từ Guru của tiếng Phạn đùng để chỉ bậc đạo sư. Một số từ đã đi vào từ vị của các ngôn ngữ châu Âu như Yoga, Dharma, Nirvana sa. nirvāṇa, Ashram sa. āśrama, Mandala sa. maṇḍala, Aryan sa. ārya, Guru, Bhagavan sa. bhagavat, Avatar sa. avatāra Tương quan giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ hệ Hán-Tạng Qua việc phổ biến Phật giáo bằng các bản dịch, tiếng Phạn và những phương ngôn hệ thuộc đã ảnh hưởng các nước lân cận với hệ ngôn ngữ Hán-Tạng. Phật giáo được truyền sang Trung Quốc qua các vị cao tăng theo Phật giáo Đại thừa, qua việc phiên dịch những kinh luận được viết theo Phật giáo tạp chủng phạn ngữ Buddhist Hybrid Sanskrit cũng như Hoa văn Phạn ngữ, và rất nhiều thuật ngữ được dịch âm thẳng sang Hán văn, bổ sung rất nhiều từ vị cho tiếng Hán cổ. Ví dụ như từ Phạn bodhisattva được phiên âm là Bồ-đề-tát-đoá hoặc viết tắt là Bồ Tát. Trong khi các chữ đơn Đề 提 “Nâng lên, nâng đỡ, kéo cho tiến lên” và Đóa “đổ đất thành đống” mang nghĩa riêng, thì khi được dùng để phiên âm tiếng Phạn chúng bị mất nghĩa, khái niệm của từ nguyên bodhisattva phải được trình bày và hiểu riêng. Sau đây là một vài ví dụ tiêu biểu cho các thuật ngữ Hán-Việt được phiên âm từ tiếng Phạn Bát-nhã và Bát-nhã-ba-la-mật-đa cho từ prajñā và prajñāpāramitā. Bát-đa-la, hoặc gọi tắt là “bát”, cho từ pātra với nghĩa là cái bát đi khất thực của các vị tăng, và cũng là cái bát ăn cơm của ta. Mặc dù Phật giáo tạp chủng phạn ngữ không phải là Hoa văn Phạn ngữ nếu nói chính xác nhưng từ vị của nó vẫn tương tự từ vị tiếng Phạn vì có cùng gốc, và vì người viết kinh muốn ghi theo lối tiếng Phạn Hoa văn để phổ biến. Ví dụ cho các bộ luận được viết dạng tiếng Phạn Hoa văn là các tác phẩm của Trung quán tông. Cái “chết” của tiếng Phạn Những lời phê bình việc dạy và học tiếng Phạn thường liên quan đến sự phổ biến và việc nó không được nói nữa. Tuy nhiên, tiếng Phạn là một ngôn ngữ có một không hai, vượt thời gian. Một hệ thống kinh điển rất đồ sộ được biên tập vào lúc nó không còn được nói bởi thường dân. Sự thật tiếng Phạn là một ngôn ngữ bất biến, được chỉ đạo bằng những quy luật văn phạm khắt khe của Ba-ni-ni đã khiến người ta chọn lựa để ghi văn bản với dụng ý phổ biến và lưu thế lâu dài. Việc trước tác bằng tiếng Phạn chưa từng bị gián đoạn, đã được tiếp tục trong thời kì Hồi giáo nắm quyền và vẫn được tiếp nối ngay trong thời nay. Giới thiệu khung văn bảnKhi đã sẵn sàng trang trí chữ cho hình ảnh, bạn nên tìm khung "Văn bản". Khung văn bản có rất nhiều tính năng và cho dù trong đó có nhiều tính năng ẩn, bạn vẫn có thể bắt đầu sử dụng một cách dễ dàng. Chỉ cần nhấp vào "Thêm văn bản", một hộp văn bản nhỏ sẽ được thêm vào ảnh của bạn. Bạn có thể di chuyển hoặc căn chỉnh văn bản giống như các thành phần thiết kế khác. Khi bạn biết mình muốn nói điều gì, hãy nhấp vào bên trong hộp văn bản để thêm văn bản vào hình ảnh. Dễ dàng vậy các kiểu kết hợp phông chữ phong cách từ thư viện của chúng tôiPhần dưới cùng của khung văn bản là vô số kiểu kết hợp phông chữ mà từ đó bạn có thể kéo-thả kiểu chữ cân đối để sử dụng ngay trên hình ảnh của mình. Chỉ cần cuộn qua khung văn bản để tìm kiểu kết hợp phông chữ hoàn hảo cho ảnh, sau đó nhấp hoặc kéo vào thiết kế của bạn. Chọn kiểu kết hợp phông chữ để tùy chỉnh màu hoặc nhấp vào văn bản giữ chỗ để bắt đầu nhập văn bản của riêng bạn. Bạn thậm chí không cần lo lắng về việc điều chỉnh cỡ chữ chúng tôi sẽ căn chỉnh mọi thứ cho bạn để chú thích ảnh vừa vặn và đẹp mắt trong phần văn văn bản thuộc bất kỳ tông màu nào với phông chữ và kiểu có thể tùy chỉnhBạn không tìm thấy kiểu kết hợp phông chữ yêu thích? Bạn có thể tạo chú thích ảnh hoàn hảo của riêng mình! Có rất nhiều phông chữ để bạn lựa chọn, từ kiểu chữ có chân lớn và đậm đến phông chữ viết tay uốn lượn. Tất cả phông chữ đều có mẫu mà bạn có thể xem trước ngay từ cửa sổ chọn phông chữ. Bạn thậm chí có thể chọn một số phông chữ yêu thích trong quảng cáo, như Helvetica và Baskerville. Hơn nữa, bạn có thể tùy chỉnh màu, cách căn chỉnh và khoảng cách của văn bản chỉ với vài thao tác nổi bật chú thích bằng nền ảnh được làm mờVăn bản của bạn bị lẫn trong mớ lộn xộn? Có rất nhiều cách để làm cho văn bản nổi bật trên ảnh. Ví dụ bạn có thể tăng cỡ chữ hoặc dùng màu nóng, tương phản cho văn bản. Nhưng bạn có thể thử một phương pháp vô cùng nghệ thuật đó là giảm sự nổi bật của hình ảnh bằng cách làm mờ đôi chút hoặc có thể tăng độ trong suốt. Sau khi thêm văn bản vào ảnh, hãy chọn hình ảnh của bạn và mở cửa sổ bộ lọc. Sau đó, từ từ di chuyển thanh trượt làm mờ sang bên phải. Bạn có thể xem trước ảnh được làm mờ trong thời gian thực và dừng lại ngay khi có thể nhìn thấy rõ văn văn bản vào không gian âm của hình ảnh để có thiết kế chuyên nghiệpCách tốt nhất để thêm văn bản vào ảnh là thêm ở vị trí trông tự nhiên và giúp cho ảnh trở nên hoàn chỉnh. Hãy thử thêm văn bản vào không gian âm của ảnh đó là những vùng mở rộng với ít chi tiết hoặc ít biến đổi, chẳng hạn như đường chân trời rộng mở, hồ nước trong rừng hoặc một khối màu. Với một vài lựa chọn phông chữ sáng tạo cùng với việc chỉnh sửa và căn chỉnh văn bản, văn bản của bạn sẽ trông như có sẵn trong hình ảnh. Người xem sẽ tự hỏi bức ảnh này trước đây làm sao có thể không có văn bản đó!Cách thêm văn bản vào ảnh trên CanvaBắt đầu giàu cảm hứngBắt đầu với mẫu tạo sẵn của Canva hoặc tạo thiết kế từ ảnh từ đầu. Lấy cảm hứng dựa trên thư viện ảnh phong phú của chúng tôi và chọn một hình ảnh mà bạn có thể thêm vào thiết kế của lên ảnhNgoài ra, bạn có thể tải trực tiếp hình ảnh lên Canva. Ở thanh bên trái, chọn Nội dung tải lên, sau đó nhấp vào Tải lên nội dung để chọn một hình ảnh từ thiết bị của hộp văn bản vào ảnhTruy cập khung Văn bản ở thanh bên trái. Chọn từ hàng trăm kiểu kết hợp phông chữ được định dạng sẵn. Hoặc thêm hộp văn bản của riêng bạn bằng cách nhấn phím T trên trình chỉnh sửa. Sau đó thêm văn bản bạn mong muốn vào hình dạng văn bảnSửa văn bản bằng cách chọn giữa các phông chữ, kích cỡ, tổ hợp màu, khoảng cách và cách căn chỉnh khác nhau. Thêm các hiệu ứng văn bản như đổ bóng, nhiễu, nhấp nháy và hiệu ứng văn bản uốn và chia sẻ thiết kế của bạnKéo-thả hộp văn bản vào vị trí mà bạn muốn trên ảnh hoặc thiết kế. Khi đã hài lòng, hãy nhấp vào nút Chia sẻ ở góc trên cùng bên phải rồi chọn giữa các tùy chọn để tải xuống hình ảnh hoặc đăng trực tiếp lên mạng xã hội.canva đơn giản là một công cụ xuất sắc giúp bạn tạo các bản thiết kế. Canva có thể mang đến một trải nghiệm hoàn hảo đến nỗi một khi bạn đã ngồi xuống để thiết kế, bạn sẽ không muốn đứng lên nữa. Rất hiệu quả và vô cùng lôi cuốn. Hãy tiếp tục phát huy nhé Canva. Tôi sử dụng Canva mỗi ngày – tôi không thể làm công việc của mình mà không có nó. Khả năng tạo kiểu logo là tính năng mà tôi yêu thích.navneet4Khám phá các tính năng khác của Trình chỉnh sửa ảnh Tiếng Phạn là một ngôn ngữ Ấn-Âu cổ đại, là gốc của nhiều ngôn ngữ Ấn Độ hiện đại, và nó vẫn là một trong 22 ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ cho đến ngày nay. Tiếng Phạn cũng có chức năng là ngôn ngữ phụng vụ chính của Ấn Độ giáo và Kỳ Na giáo, và nó cũng đóng một vai trò quan trọng trong kinh điển Phật giáo. Tiếng Phạn đến từ đâu, và tại sao nó lại gây tranh cãi ở Ấn Độ ? Từ tiếng Phạn có nghĩa là "thần thánh hóa" hoặc "tinh luyện". Tác phẩm sớm nhất được biết đến bằng tiếng Phạn là Rigveda , một bộ sưu tập các văn bản Bà La Môn giáo, có niên đại c. 1500 đến 1200 TCN. Bà La Môn giáo là tiền thân ban đầu của Ấn Độ giáo. Ngôn ngữ Phạn được phát triển từ Ấn-Âu, là gốc của hầu hết các ngôn ngữ ở châu Âu, Ba Tư Iran và Ấn Độ. Anh em họ gần nhất của nó là tiếng Ba Tư Cổ, và tiếng Avestan, là ngôn ngữ phụng vụ của đạo Zoroastrianism . Tiếng Phạn Tiền Cổ điển, bao gồm cả ngôn ngữ của Rigveda , được gọi là Vedic Sanskrit. Một dạng sau này, được gọi là tiếng Phạn cổ điển, được phân biệt bởi các tiêu chuẩn ngữ pháp được đặt ra bởi một học giả tên là Panini, viết vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Panini đã xác định quy tắc gây bối rối cho cú pháp, ngữ nghĩa và hình thái trong tiếng Phạn. Tiếng Phạn cổ điển sinh ra phần lớn trong số hàng trăm ngôn ngữ hiện đại được sử dụng trên khắp Ấn Độ, Pakistan , Bangladesh , Nepal và Sri Lanka ngày nay. Một số ngôn ngữ con của nó bao gồm tiếng Hindi, tiếng Marathi, tiếng Urdu, tiếng Nepal, tiếng Balochi, tiếng Gujarati, tiếng Sinhalese và tiếng Bengali. Mảng các ngôn ngữ nói phát sinh từ tiếng Phạn được khớp với vô số các chữ viết khác nhau mà tiếng Phạn có thể được viết. Thông thường nhất, mọi người sử dụng bảng chữ cái Devanagari. Tuy nhiên, hầu hết mọi bảng chữ cái Ấn Độ khác đã được sử dụng để viết bằng tiếng Phạn vào lúc này hay lúc khác. Các bảng chữ cái Siddham, Sharda và Grantha được sử dụng riêng cho tiếng Phạn, và ngôn ngữ này cũng được viết bằng chữ viết của các quốc gia khác, chẳng hạn như tiếng Thái, tiếng Khmer và tiếng Tây Tạng. Theo điều tra dân số gần đây nhất, chỉ có người trong số người ở Ấn Độ nói tiếng Phạn là ngôn ngữ chính của họ. Nó được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ tôn giáo; hàng ngàn bài thánh ca và thần chú của đạo Hindu được đọc lại bằng tiếng Phạn. Ngoài ra, nhiều kinh điển Phật giáo cổ nhất được viết bằng tiếng Phạn, và các bài tụng kinh Phật giáo cũng thường sử dụng ngôn ngữ phụng vụ quen thuộc với Siddhartha Gautama, vị hoàng tử Ấn Độ đã trở thành Đức Phật. Nhiều người trong số các Bà-la-môn và các tu sĩ Phật giáo tụng kinh bằng tiếng Phạn ngày nay không hiểu ý nghĩa thực tế của những lời họ nói. Do đó, hầu hết các nhà ngôn ngữ học coi tiếng Phạn là một "ngôn ngữ chết". Một phong trào ở Ấn Độ hiện đại đang tìm cách hồi sinh tiếng Phạn như một ngôn ngữ nói để sử dụng hàng ngày. Phong trào này gắn liền với chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ, nhưng bị phản đối bởi những người nói ngôn ngữ không thuộc Ấn-Âu, bao gồm cả những người nói ngôn ngữ Dravidic ở miền nam Ấn Độ, chẳng hạn như người Tamil . Với sự cổ xưa của ngôn ngữ, sự hiếm có tương đối của nó trong việc sử dụng hàng ngày ngày nay và thiếu tính phổ biến của nó, việc nó vẫn là một trong những ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ có phần hơi kỳ quặc. Cứ như thể Liên minh châu Âu đã biến tiếng Latinh trở thành ngôn ngữ chính thức của tất cả các quốc gia thành viên. "Thưa quí bạn Tôi bắt đầu hướng dẫn các lớp học chữ Phạn từ năm 2012 tại Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Liễu Quán Huế, tại chùa Xá Lợi, Tu viện Huê Nghiêm tại Tp HCM và đặc biệt những năm sau này tại Tu viện Huệ Quang và Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Tp năm tôi đều cố gắng thu xếp mở một lớp Phạn Căn Bản và một lớp Phạn Nâng Cao để giúp các bạn muốn học chữ Phạn và hoàn toàn miễn phí. Nhưng năm nay 2020, dịch viêm đường hô hấp do virus Corona gây ra khiến cho mọi sinh hoạt không những ở nước ta mà ở khắp nơi trên thế giới bị ngưng trệ. Cho nên các lớp học chữ Phạn tôi dự định mở vào các tháng mùa Xuân và Hè năm 2020 phải đình hoãn vô thời chính trong thời gian “cách li” theo chủ trương “giãn cách xã hội” của chính quyền để chống dịch, tôi đã nghĩ đến việc giúp các bạn có thể học chữ Phạn mà không cần đến lớp. Vì vậy tôi đã soạn hoàn chỉnh lại 30 bài học cho lớp Phạn Căn Bản, và đọc lời giảng, ghi âm lại qua PowerPoint và cũng đã chuyển qua Video để sẵn sàng tải lên Internet. Tôi nghĩ đây là cách hữu hiệu nhất để giúp quí bạn học được chữ Phạn trong hoàn cảnh hiện nay và nhất là trong thời đại công nghệ thông tin này vì quí bạn có thể tải về máy các bạn hoàn toàn miễn phí và quí bạn có thể học theo khả năng, theo thời gian thuận tiện nhất của mỗi bạn dù bạn ở đâu, ở trong nước hay ở nước ngoài. Và đây cũng là cách tốt nhất giúp tôi vượt qua trở ngại không gian và thời gian để có thể đến với quí bạn bất cứ khi nào bạn dung 30 bài giảng này là phần tóm tắt nội dụng các Tập I, Tập II và một phần Tập III trong bộ sách Tự Học Tiếng Phạn gồm 4 Tập I, II, III, và IV của tôi. Vì vậy trong khi học 30 bài giảng này các bạn cần có các Tập I, II, và III để tham khảo. Đồng thời trong 30 bài giảng này, tôi cũng hướng dẫn quí bạn đọc và hiểu ý nghĩa các câu của Chú Đại Bi. Cho nên quí bạn cũng cần tham khảo thêm chương Về Bản Phạn Văn Và Ý Nghĩa Của Chú Đại Bi trong sách Thần Chú Trong Phật Giáo của Phạn đã được dùng để viết Kinh sách Phật giáo Đại thừa. Đó là một cổ ngữ rất uyên bác và tinh tế, có thể dùng để chuyển tải nội hàm của các vấn đề một cách rất chính xác mà hiếm có một ngôn ngữ nào trên thế giới có thể sánh được. Chính vì vậy mà ngữ Pháp của tiếng Phạn rất phức tạp, chi li và chặt chẽ. Đó cũng là lí do khiến việc học chữ Phạn đòi hỏi sự tập trung chú ý cao độ, và kiên trì trong một thời gian tương đối dài mới có kết quả đó để việc học của quí bạn có kết quả tốt, quí bạn cần dành một lượng thời gian thích hợp, đều đặn hàng tuần để học. Quí bạn có thể nghe lời giảng qua Video hay qua Slide Show trong PowerPoint và đồng thời đọc được lời giảng. Điều rất cần để việc học có kết quả tốt là sau khi học kỹ từng bài, quí bạn phải dành thì giờ làm bài tập. Mặc dầu trong các Tập I, II và III, tôi đều cho đáp án của tất cả bài tập, nhưng quí bạn nên nỗ lực tự làm rồi hãy so với đáp án. Riêng trong 30 bài giảng này, tôi cố ý không đưa ra đáp án của các bài tập là cốt để khuyến khích sự nỗ lực tự làm bài tập của quí bạnSau khi quí bạn làm xong bài tập của từng bài học, quí bạn nên gởi bài làm của quí bạn cho tôi, qua địa chỉ email letuhy có một số trợ giảng giúp tôi trong việc đọc bài làm của quí bạn, giúp chỉ ra và sửa các sai sót trong bài làm của quí bạn. Sau khi quí bạn nhận được thư từ các trợ giảng, quí bạn tự sửa lại bài làm của quí bạn, làm lại bài tập cho đến khi tinh bạn cần kiên trì học, làm bài tập từ Bài 1 cho đến Bài 30. Sau khi quí bạn hoàn thành việc học bài 30 thì quí bạn đã có một căn bản chữ Phạn khá giờ quí bạn có thể hoàn toàn tự học tiếp Tập III và Tập IV gồm 2 phần I, và Phần II. Sau khi hoàn tất việc học các Tập III và IV, quí bạn đã có một căn bản khá vững chắc về chữ Phạn. Quí bạn nên áp dụng căn bản này để đọc và học các sách Kinh A Di Đà Phạn-Việt, Kinh Kim Cương Phạn-Việt, và Đường Vào Luận Lí Phạn-Việt cũng do tôi biên soạn. Tất cả những sách này của tôi đều do Thư Viện Huệ Quang phát hành, website chỉ Số 116 Hòa Bình, phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Tp Hồ Chí quá trình học tập này, quí bạn đã có căn bản vững chắc về chữ Phạn và bấy giờ viêc đọc, tham khảo các Kinh sách Phật giáo viết bằng Phạn văn không còn là vấn đề khó đối với quí bạn quí bạn an vui, thành công trong việc học và thành công trong cuộc biệt quí bạn"Tp. Hồ Chí Minh - Mùa Phật Đản năm 2020Lê Tự Hỷ - Email letuhy ai muốn có toàn bộ 30 Bài giảng dạng file Power Point, file Chú Đại Bi, file các thuật ngữ Phật học và từ vựng dùng trong 30 bài giảng thì gửi email về letuhy88 bạn có thể theo dõi bài giảng tại kênh Youtube

viết chữ án làm bằng tiếng phạn